Hoàn thiện quy định pháp luật về thị trường chứng khoán phái sinh

Dương Hồng Hà - Phạm Tiến Đạt(*)

25/09/2025, 13:56

Thị trường chứng khoán phái sinh đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống tài chính hiện đại, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý rủi ro và tối ưu hóa hiệu quả đầu tư. Tại Việt Nam, sau hơn tám năm hoạt động, thị trường chứng khoán phái sinh đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ về quy mô giao dịch, số lượng thành viên và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thị trường này vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là trong việc hoàn thiện khung pháp lý.

VnEconomy

Bài viết này sẽ phân tích thực trạng quy định pháp lý về thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật liên quan.

Hệ thống quy định pháp luật về thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam thời gian qua đã từng bước được ban hành, bổ sung và hoàn thiện, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phái sinh phát triển theo đúng chủ trương của Chính phủ, yêu cầu của nền kinh tế và hướng đến các chuẩn mực quốc tế.

Định hướng của Nhà nước chỉ đạo cho sự ra đời của thị trường chứng khoán phái sinh gồm 3 quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 về việc phê duyệt Đề án Phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 về “Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, Quyết định số 366/2014/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 về việc phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam.

KHUNG KHỔ  PHÁP LÝ VỀ  THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH

Khung pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam chính thức được ra đời bằng việc Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP quy định về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh ngày 5/5/2015 là Nghị định đầu tiên về thị trường chứng khoán phái sinh quy định chi tiết đối với một số nội dung cơ bản như tổ chức kinh doanh chứng khoán phái sinh, thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh, thanh toán bù trừ CKPS, nghĩa vụ công bố thông tin và cơ chế quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán phái sinh. Năm 2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 158/2020/NĐ-CP về CKPS và TTCKPS thay thế Nghị định số 42/2015/NĐ-CP để khắc phục một số vướng mắc, hạn chế trong quá trình triển khai thị trường chứng khoán phái sinh và nhằm tương thích với các quy định pháp lý mới tại Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14.

Ngoài ra, hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan: (i) Luật Chứng khoán năm 2019; (ii) Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán; (iii) Thông tư số 58/2021/TT-BTC hướng dẫn một số điều của Nghị định số 158/2020/NĐ-CP; (iv) Thông tư số 06/2022/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát tuân thủ của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam; (vi) Thông tư số 25/2022/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.

Nhìn chung, khung khổ pháp lý cơ bản điều chỉnh thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam đã được hình thành dưới hình thức các quy định tại Luật Chứng khoán và một số Nghị định, Thông tư góp phần cho việc thị trường chứng khoán phái sinh đi vào hoạt động tương đối ổn định từ năm 2017 theo lộ trình của chiến lược phát triển TTCK Việt Nam.

Cùng với đó, các đơn vị thuộc Bộ Tài chính là Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam đã ban hành các quy định mang tính nghiệp vụ về việc thành lập và hoạt động của các thiết chế tham gia vận hành thị trường như tổ chức kinh doanh chứng khoán phái sinh, tổ chức cung cấp dịch vụ bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh, thành viên giao dịch, thành viên tạo lập thị trường, niêm yết và giao dịch chứng khoán phái sinh, cơ chế quản lý, giám sát thị trường chứng khoán phái sinh, hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh, chế độ báo cáo và công bố thông tin.

Bên cạnh những điểm đạt được, khung pháp lý đối với thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam thời gian qua vẫn còn một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, khung pháp lý đối với thị trường chứng khoán phái sinh mới ở cấp độ Nghị định, Thông tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường về dài hạn.

Trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam trong bối cảnh quy mô thị trường chứng khoán cơ sở chưa đủ lớn, tính biến động cao, các quy định và công cụ nhằm bảo đảm an ninh, an toàn của thị trường, phòng chống các hành vi thao túng chưa đầy đủ và năng lực của các thành viên thị trường còn chưa hoàn thiện, khung pháp lý của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam mới được xây dựng ở cấp độ Nghị định, Thông tư và các quyết định, quy chế của các đơn vị tổ chức vận hành thị trường là phù hợp và cũng tạo thuận lợi và sự linh hoạt để dễ dàng bổ sung, sửa đổi.

Trong bối cảnh hiện nay, TTCK Việt Nam chuẩn bị được nâng hạng từ TTCK cận biên lên TTCK mới nổi theo tiêu chí của tổ chức xếp hạng thị trường FTSE Russell và tiếp tục phấn đấu nâng hạng lên TTCK mới nổi theo tiêu chí của MSCI trong giai đoạn tới năm 2030, một trong những tiêu chí nâng hạng mà TTCK Việt Nam chưa đạt được là có một thị trường chứng khoán phái sinh hoạt động ở cấp độ tương đối phát triển (FTSE Russell) và có sự đa dạng về các công cụ tài chính bao gồm các sản phẩm chứng khoán phái sinh (MSCI).

Theo kinh nghiệm quốc tế, một số quốc gia khu vực châu Á có TTCKPS phát triển đã ban hành khung pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh ở cấp độ Luật dưới hình thức một đạo luật riêng về chứng khoán phái sinh như Trung Quốc (Luật Hợp đồng tương lai và phái sinh ban hành năm 2022), Thái Lan (Đạo luật phái sinh BE 2546 ban hành năm 2003), Singapore (Luật Chứng khoán và phái sinh ban hành năm 2001), hoặc các quy định pháp lý về chứng khoán phái sinh nằm tại một số bộ Luật liên quan như Nhật Bản, Hàn Quốc…

Do đó, trong lộ trình phát triển của thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán phái sinh nói riêng, thời gian tới cần xem xét yêu cầu nâng cấp khung pháp lý của thị trường chứng khoán phái sinh lên cấp độ Luật có giá trị pháp lý cao hơn, phạm vi điều chỉnh đầy đủ và rộng hơn để tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh lên giai đoạn phát triển cao hơn và hội nhập với các thị trường tài chính quốc tế.

Thứ hai, phạm vi điều chỉnh của các quy định pháp lý về sản phẩm chứng khoán phái sinh hiện nay còn khá hẹp, chỉ tập trung vào các sản phẩm chứng khoán phái sinh dựa trên một số ít các tài sản cơ sở như cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ.

Cụ thể, đối với tài sản được coi là hàng hóa cơ sở của chứng khoán phái sinh, Luật Chứng khoán 2019 quy định “Tài sản cơ sở của chứng khoán phái sinh (sau đây gọi là tài sản cơ sở) là chứng khoán, chỉ số chứng khoán hoặc tài sản khác theo quy định của Chính phủ được sử dụng làm cơ sở để xác định giá trị chứng khoán phái sinh”. Tuy vậy, khoản 1 Điều 14 Nghị định số 158/2020/NĐ-CP về cơ bản chỉ điều chỉnh sản phẩm chứng khoán phái sinh trên tài sản cơ sở là chứng khoán, chỉ số chứng khoán mà thiếu đi các quy định cụ thể đối với các sản phẩm phái sinh dựa trên các loại tài sản cơ sở khác như hàng hóa, nông sản, vàng…

Trên thực tế, thị trường chứng khoán phái sinh đang triển khai 3 sản phẩm phái sinh là Hợp đồng tương lai (HĐTL) chỉ số VN30, HĐTL trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 và 10 năm, tuy nhiên về bản chất chỉ tồn tại 1 loại chứng khoán phái sinh đó là HĐTL. Trong đó, chỉ có HĐTL chỉ số VN30 là sản phẩm phái sinh có tính thanh khoản tương đối ổn định còn HĐTL trái phiếu chính phủ 5 và 10 năm có tính thanh khoản rất thấp.

Đối với HĐTL chỉ số VN30 qua quá trình vận hành cũng đã bộc lộ một số hạn chế như: (i) số lượng cổ phiếu trong rổ còn ít trong khi tỷ trọng vốn hóa trong rổ tập trung khá lớn vào các ngành ngân hàng, dịch vụ tài chính, bất động sản dẫn đến chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng ngừa rủi ro đa dạng của các nhóm nhà đầu tư khác nhau; (ii) một số cổ phiếu thành phần trong VN30 có thanh khoản thấp, biến động mạnh vào một số thời điểm nhất định trong phiên giao dịch, quanh các ngày đáo hạn HĐTL có thể tác động lên chỉ số VN30 và giá HĐTL chỉ số VN30; (iii) giao dịch HĐTL VN30 chỉ tập trung giao dịch ở kỳ hạn ngắn là 1 tháng, còn thiên về tính đầu cơ trong ngắn hạn hơn là phòng ngừa rủi ro cho danh mục đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trong trung dài hạn...

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN  PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH

Thứ nhất, hoàn thiện quy định phát triển sản phẩm và hàng hóa cơ sở.

Trong bối cảnh cấu trúc sản phẩm còn thiếu đa dạng, thanh khoản tập trung gần như tuyệt đối vào HĐTL chỉ số VN30, việc đa dạng hóa sản phẩm là yêu cầu cấp thiết. Căn cứ Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030, Bộ Tài chính cần sớm sửa đổi, bổ sung Thông tư số 58/2021/TT-BTC và ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết để triển khai HĐTL trên cổ phiếu đơn lẻ, hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán và cổ phiếu.

Đồng thời, về dài hạn, để tạo nền tảng pháp lý vững chắc và đáp ứng tiêu chí nâng hạng thị trường theo MSCI và FTSE Russell, cần xem xét ban hành một đạo luật riêng về chứng khoán phái sinh, có phạm vi điều chỉnh đầy đủ, đồng bộ và tương thích với thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, các Sở Giao dịch Chứng khoán cần tiếp tục xây dựng, chuẩn hóa và mở rộng các bộ chỉ số cơ sở theo hướng đa ngành (bất động sản – xây dựng, công nghệ cao, dịch vụ công cộng, khai khoáng, tiêu dùng…), cũng như thử nghiệm bộ chỉ số mở rộng VN50 hoặc VN100 nhằm giảm rủi ro tập trung, hạn chế khả năng thao túng chỉ số và đáp ứng nhu cầu phòng ngừa rủi ro đa dạng của các nhà đầu tư tổ chức.

Thứ hai, sửa đổi, ban hành các quy định nhằm cải thiện cơ cấu nhà đầu tư và nâng cao chất lượng thành viên thị trường.

Khung pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng nâng cao điều kiện tham gia của nhà đầu tư cá nhân, có thể yêu cầu chứng chỉ đào tạo về CKPS, kiểm chứng năng lực tài chính, hoặc chỉ cho phép nhóm nhà đầu tư chuyên nghiệp được tiếp cận sản phẩm phái sinh phức tạp. Song song, cần có cơ chế thuế và phí mang tính phân loại: giảm gánh nặng cho giao dịch phòng ngừa rủi ro và đầu tư dài hạn, nhưng áp mức phí cao hơn với giao dịch đầu cơ ngắn hạn.

Với nhóm nhà đầu tư tổ chức, cần xem xét sửa đổi các quy định nhằm mở rộng phạm vi tham gia của công ty quản lý quỹ, doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng, cho phép đầu tư CKPS với giới hạn hợp lý ngoài mục tiêu phòng ngừa rủi ro. Các ưu đãi về tài chính, thủ tục, cơ sở hạ tầng cũng nên được thiết kế để khuyến khích các công ty chứng khoán đảm nhận vai trò nhà tạo lập thị trường, từ đó tăng thanh khoản và tính chuyên nghiệp...

——————————————————

(*) Dương Hồng Hà, Phạm Tiến Đạt, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 37-2025 phát hành ngày 15/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-37-2025.html

VnEconomy

Đọc thêm

Kiến tạo không gian phát triển cho kinh tế tư nhân

Kiến tạo không gian phát triển cho kinh tế tư nhân

Xu hướng dân số trái ngược tại 4 nền kinh tế lớn

Xu hướng dân số trái ngược tại 4 nền kinh tế lớn

Đón đọc Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 37-2025

Đón đọc Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 37-2025

Asko AI Platform

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính:

VnEconomy