Nâng cao chất lượng hàng hóa, thị trường là điều kiện cần, lâu dài
Hoàng Xuân
21/03/2024, 07:00
Các số liệu thống kê cho thấy rằng kể từ khi công bố đến khi có hiệu lực, trung bình các chỉ số chứng khoán của các thị trường được nâng từ cận biên lên mới nổi tăng khoảng 23%. Một ví dụ mà nhiều người hay nêu là chỉ số chứng khoán Karachi của Pakistan tăng tới 300% khi họ được nâng hạng năm 2009...
Để giải bài toán nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi như mục tiêu đặt ra, trong cuộc trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, GS.TS. Quách Mạnh Hào, Đại học Lincohn, Vương quốc Anh, cho rằng nên làm từng bước mà chắc còn hơn cùng làm nhiều bước mà chậm. Ví dụ, chúng ta nên tập trung hoàn toàn cho việc nâng hạng bởi FTSE Russell vì chúng ta đã được thêm vào danh sách theo dõi từ cách đây 5 năm rồi, cũng đã tạo ra sự chú ý nhất định của giới đầu tư nước ngoài rồi, bây giờ thực chất chỉ còn một điều kiện mà điều kiện này có thể đáp ứng được thông qua sự phối hợp giữa các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại.
Hiện nay, theo phân loại của ba tổ chức xếp hạng lớn của thế giới (MSCI, FTSE Russell và S&P Dow Jones) đã phân loại các thị trường tài chính thành ba loại theo từng năm: thị trường phát triển (DM), thị trường mới nổi (EM) và thị trường cận biên (FM). Ông đánh giá thế nào về cơ hội nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam?
Thông tin báo chí có khá nhiều về vấn đề này rồi nên tôi không nhắc lại. Có thể hình dung là việc phân loại thị trường dựa vào các tiêu chí cứng mà họ đặt ra, mỗi tổ chức có các tiêu chí khác nhau, nhưng có một đặc điểm chung là họ quan tâm nhiều tới vấn đề sở hữu và sự thuận tiện trong giao dịch. Chúng ta đang ở nhóm thị trường cận biên của cả ba tổ chức và chúng ta muốn nâng hạng lên thành thị trường mới nổi.
Trong ba tổ chức nêu trên thì hiện thực tế nhất đối với Việt Nam cho mục tiêu nâng hạng trước năm 2025 là FTSE Rusell khi mà Việt Nam đã đáp ứng được 7/9 tiêu chí, chỉ còn lại vấn đề ký quỹ trước giao dịch cho người nước ngoài. Hiểu đơn giản là chúng ta yêu cầu tại lúc đặt lệnh phải có đủ tiền trong khi thông lệ quốc tế là tại lúc đặt lệnh chỉ cần một phần tiền ký quỹ và tại thời điểm thanh toán (T 2) mới cần có đủ tiền, và vấn đề mang tính hệ quả kèm theo là cơ chế xử lý với giao dịch thất bại, tức là họ không đủ tiền lúc thanh toán thì xử lý thế nào.
Còn với MSCI và S&P Dow Jones thì chúng ta còn khá xa, và cần thời gian vì chúng ta chưa đáp ứng được một nửa các tiêu chí họ đặt ra, mà toàn vấn đề khó liên quan tới việc phải sửa luật.
Vậy có thể lượng hóa được các cơ hội và thách thức của việc nâng hạng như thế nào, thưa ông?
Việc được nâng hạng chắc chắn mang lại tiền vì một khi nằm trong nhóm thị trường mới nổi, mức độ rủi ro có thể hiểu là thấp hơn, dẫn tới sự phân bổ tài sản của các quỹ đầu tư chỉ số thụ động. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư chủ động và nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ tìm đến. Các số liệu thống kê cho thấy rằng kể từ khi công bố đến khi có hiệu lực, trung bình các chỉ số chứng khoán của các thị trường được nâng từ cận biên lên mới nổi tăng khoảng 23%. Một ví dụ mà nhiều người hay nêu là chỉ số chứng khoán Karachi của Pakistan tăng tới 300% khi họ được nâng hạng năm 2009.
Mặc dù vậy, chúng ta cần phải hết sức thực tế bởi việc tiền vào bao nhiêu còn phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng hàng hóa của chúng ta. Việc phân bổ thụ động nếu được nâng hạng lên nhóm mới nổi của FTSE Russell ước tính khoảng 800 triệu đến 1 tỷ USD, và sẽ tăng lên khoản 4-5 tỷ USD nếu được nâng hạng bởi MSCI và S&P Dow Jones và khi đó tiềm năng có thể tới 10 tỷ USD theo ước tính của Ngân hàng Thế giới nếu tính cả thụ động và chủ động.
Như vậy, với việc chúng ta hiện tại khả thi nhất là được nâng hạng bởi FTSE Russell vào cuối năm nay thì con số ước tính chỉ là trên dưới 1 tỷ USD. Con số này thực ra cũng tương đương với số tiền mà nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng trong năm 2023 (khoảng 22,600 tỷ đồng). Tất nhiên ý nghĩa của việc nâng hạng là lớn vì nó giúp chúng ta thu hút thêm các nguồn vốn chủ động, nâng danh tiếng của Việt Nam trong con mắt giới đầu tư toàn cầu, cơ hội kinh doanh khác chứ không hẳn chỉ là tiền vốn đầu tư.
Mục tiêu chúng ta hướng tới trong việc thu hút vốn nước ngoài không phải là vốn thụ động mà là vốn chủ động cho doanh nghiệp.
Nhưng tất nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng được chọn để đưa vào chỉ số, hoặc ngay cả việc Việt Nam được nâng hạng thì cũng có thể xuống hạng nếu không luôn đáp ứng tiêu chí mỗi kỳ xem xét. Tình huống này đã từng xảy ra với Pakistan và ngay cả khi họ nằm trong nhóm mới nổi của FTSE Russell như hiện tại thì thực tế họ cũng chỉ có một doanh nghiệp được chọn. Điều này có nghĩa rằng bên cạnh xử lý các điều kiện cứng, các điều kiện mềm liên quan tới chất lượng hàng hóa, doanh nghiệp là điều quan trọng.
Các vấn đề liên quan tới thao túng giá, công bố thông tin không đúng (chưa kể vấn đề tiếng Anh) đã là một trở ngại và chúng ta cần phải xử lý triệt để các điều kiện mềm này. Mục tiêu chúng ta hướng tới trong việc thu hút vốn nước ngoài không phải là vốn thụ động mà là vốn chủ động cho doanh nghiệp, thì câu nói đó cho chúng ta hiểu rằng trong con mắt người nước ngoài, việc nâng hạng là một điều kiện cần thiết, nhưng nâng cao chất lượng hàng hóa và thị trường mới là điều kiện đủ, lâu dài.
Theo phân loại hiện nay, cả ba tổ chức xếp hạng lớn này đều đang phân loại Việt Nam là thị trường cận biên và đưa vào danh sách xem xét nâng hạng lên thị trường mới nổi. Theo ông, Việt Nam cần giải bài toán nâng hạng như thế nào một cách nhanh nhất?
Theo quan điểm cá nhân tôi, chúng ta nên làm từng bước mà chắc còn hơn cùng làm nhiều bước mà chậm. Ví dụ, chúng ta nên tập trung hoàn toàn cho việc nâng hạng bởi FTSE Russell vì chúng ta đã được thêm vào danh sách theo dõi từ cách đây 5 năm rồi, cũng đã tạo ra sự chú ý nhất định của giới đầu tư nước ngoài rồi, bây giờ thực chất chỉ còn một điều kiện mà điều kiện này có thể đáp ứng được thông qua sự phối hợp giữa các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại...
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 12-2024 phát hành ngày 18/03/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Ngày mai 2 quỹ ETF cơ cấu danh mục, những cổ phiếu nào bị bán ra nhiều nhất?
Các thay đổi về chỉ số hai ETF tham chiếu sẽ được thực hiện trong tuần này ngày 19/9 và danh mục mới có hiệu lực vào thứ 2 tuần sau ngày 22/9.
Chuyên gia: Không chủ quan với tỷ giá dù Fed đã giảm lãi suất
Theo chuyên gia, nếu Fed buộc phải hạ lãi suất mạnh hơn, đó có thể là tín hiệu kinh tế Mỹ suy yếu, kéo nhu cầu nhập khẩu đi xuống. Điều này sẽ bất lợi cho xuất khẩu của Việt Nam, khiến nguồn cung ngoại tệ chủ lực suy giảm và tạo áp lực lên tỷ giá...
Blog chứng khoán: Tiền bắt đáy yếu
Phiên đáo hạn phái sinh khá bình yên, các chỉ số VNI, VN30 thay đổi nhỏ nhưng cổ phiếu tiếp tục điều chỉnh diện rộng. Đặc biệt thanh khoản sụt giảm nhiều và lực cầu chủ động kém. Gần vùng đỉnh nhưng tâm lý khá trơ với các thông tin hỗ trợ.
Thanh khoản tiếp tục giảm mạnh, khối ngoại bán ròng gần 1700 tỷ
Khả năng neo giữ các cổ phiếu lớn vẫn có ảnh hưởng tích cực lên điểm số, giúp VN-Index cuối phiên chỉ giảm nhẹ chưa tới 6 điểm. Tuy vậy trạng thái giá cổ phiếu không được cải thiện, thậm chí số mã giảm sâu còn nhiều lên. Đặc biệt khối ngoại đẩy mạnh bán ra tới gần 1700 tỷ trên cả ba sàn, mức cao nhất 6 phiên gần đây.
Vì sao VPBankS đặt mục tiêu tăng trưởng tham vọng trong 5 năm tới?
Từ sự khởi sắc của thị trường chứng khoán, kỳ vọng nâng hạng, triển vọng thương vụ IPO, sự đầu tư mạnh mẽ về công nghệ, hợp tác trong hệ sinh thái, VPBankS đặt ra mục tiêu tăng trưởng kép 32%/năm trong 5 năm; ROE, ROA gấp khoảng hai lần trung bình ngành chứng khoán hiện nay vào năm 2030.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: