21:11 07/06/2023

Phụ tải không đáp ứng được nhu cầu, miền Bắc có nguy cơ thiếu điện trong hầu hết các giờ trong ngày

Mạnh Đức

Hệ thống điện miền Bắc sẽ thiếu hụt khoảng 4.350 MW với sản lượng không đáp ứng được trung bình ngày khoảng là 30,9 triệu kWh, ngày cao nhất có thể lên tới 50,8 triệu kWh. Miền Bắc có nguy cơ thiếu công suất tại hầu hết các giờ trong ngày…

Nhu cầu sử dụng điện ở khu vực miền Bắc có thể lên mức 23.500-24.000 MW trong những ngày nắng nóng sắp tới.
Nhu cầu sử dụng điện ở khu vực miền Bắc có thể lên mức 23.500-24.000 MW trong những ngày nắng nóng sắp tới.

Chiều 7/6, tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức buổi gặp mặt trao đổi với báo chí về tình hình cung ứng điện trong bối cảnh nhiều địa phương ở miền Bắc bị cắt điện thời gian vừa qua.

Ông Trần Việt Hòa – Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực cho biết tình hình nắng nóng gay gắt và tác động của hiện tượng El Nino diễn ra tại nhiều địa phương trên cả nước đã làm tăng nhu cầu điện sinh hoạt của nhân dân, kết hợp với tình trạng nước về các hồ thuỷ điện rất thấp đã gây ảnh hưởng rất lớn đến việc cung ứng điện trong mùa khô năm 2023.

Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam (EVN), Dầu khí Việt Nam (PVN), Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các bộ, cơ quan có liên quan đã nỗ lực thực hiện một số giải pháp cấp bách, nhưng đến nay đã xuất hiện những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm cung ứng đủ điện trọng thời gian tới, đặc biệt là ở miền Bắc, với đặc trưng là nguồn thuỷ điện chiếm tỷ trọng lớn 43,6%.

Ông Trần Việt Hòa trao đổi thông tin với báo chí về tình hình cung ứng điện.
Ông Trần Việt Hòa trao đổi thông tin với báo chí về tình hình cung ứng điện.

Về nguồn thuỷ điện, tính đến ngày 6/6/2023, hầu hết các hồ thủy điện lớn ở miền Bắc đã về mực nước chết gồm: Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Bản Chát, Hủa Na, Thác Bà. Riêng hai hồ thủy điện Lai Châu và Sơn La đã xuống dưới mực nước chết. Duy nhất hồ thủy điện Hòa Bình còn nước trong hồ và có thể duy trì phát điện đến khoảng ngày 12-13/6.

Tổng công suất không huy động được của các nguồn thủy điện miền Bắc nêu trên sẽ ở mức 5.000 MW và có thể lên đến 7.000MW khi hồ thủy điện Hòa Bình về mực nước chết. Như vậy, tính đến ngày 6/6/2023, công suất khả dụng của thuỷ điện là 3.110 MW, chỉ đạt 23,7% công suất lắp đặt.

Về nguồn nhiệt điện, do thời tiết nắng nóng, nhiệt độ tăng cao, các tổ máy hoạt động tối đa công suất trong thời gian dài dẫn đến những sự cố về thiết bị (chủ yếu là xì ống sinh hơi, xì bộ hâm, bộ quá nhiệt, máy nghiền than, bơm cấp...).

Ngoài ra, nhiều tổ máy nhiệt điện than bị sự cố dài ngày (Vũng Áng 1 tổ, Phả Lại 1 tổ, Cẩm Phả 1 tổ, Nghi Sơn 2 1 tổ). Điển hình như ngày 1/6, tổng công suất không huy động được từ các nhà máy nhiệt điện than miền Bắc bị sự cố và suy giảm công suất lên đến 1.030MW.

Mặc dù nguồn nhiên liệu than cho phát điện đã được cấp tương đối đảm bảo, nhưng cập nhật đến ngày 6/6/2023, nguồn nhiệt điện than miền Bắc chỉ huy động được 11.934 MW, chiếm 76,6% công suất lắp đặt. Trong khi đó, khả năng truyền tải điện từ miền Trung ra miền Bắc qua đường dây 500 kV Bắc-Trung luôn ở ngưỡng giới hạn cao (giới hạn tối đa từ 2.500 MW đến 2.700 MW) dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ sự cố.

Như vậy, tổng công suất khả dụng của hệ thống điện miền Bắc (bao gồm cả điện nhập khẩu) có thể huy động để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện chỉ đạt mức 17.500-17.900MW (khoảng 59,2% công suất lắp đặt). Công suất này đã bao gồm khoảng từ 2.500 - 2.700 MW truyền tải từ miền Nam và miền Trung ra Bắc (cung đoạn đường dây 500kV Nho Quan - Hà Tĩnh).

Trong khi đó, nhu cầu sử dụng điện ở khu vực miền Bắc có thể lên mức 23.500-24.000 MW trong những ngày nắng nóng sắp tới. Như vậy, hệ thống điện miền Bắc sẽ thiếu hụt khoảng 4.350 MW với sản lượng không đáp ứng được trung bình ngày khoảng là 30,9 triệu kWh (ngày cao nhất có thể lên tới 50,8 triệu kWh). Hệ thống điện miền Bắc đối mặt với nguy cơ thiếu công suất tại hầu hết các giờ trong ngày.

Trước tình hình có khả năng ảnh hưởng đến an toàn vận hành hệ thống điện, trong những ngày vừa qua, EVN đã phải tiến hành điều tiết giảm phụ tải tại miền Bắc. Cụ thể, ngày 5/6, tổng công suất phụ tải tiết giảm là 3.609 MW lúc 16h30, trong đó tiết giảm phụ tải công nghiệp lớn nhất khoảng 1.423MW, tiết giảm phụ tải sinh hoạt lớn nhất là 1.264MW.

Bổ sung thêm, ông Trần Đình Nhân, Tổng giám đốc EVN cho biết hiện ở miền Nam, miền Trung hoàn toàn đảm bảo cung ứng điện, riêng miền Bắc còn nhiều khó khăn. Từ nay đến khi nước về, EVN sẽ cố gắng đảm bảo tốt nhất duy trì hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn.

“Khi nhu cầu phụ tải trong thời gian nắng nóng tiếp tục tăng cao, nguồn điện cung ứng nhiều lúc còn khó khăn, không đáp ứng đủ, một số thời điểm chúng ta phải tiết giảm điện, EVN mong doanh nghiệp, người dân thông cảm trong lúc khó khăn này”, ông Nhân chia sẻ.

Về quy mô cắt giảm điện ở khu vực miền Bắc và số giờ cắt giảm điện, ông Ngô Sơn Hải, Phó tổng giám đốc EVN cho biết hiện nay công suất khả dụng nguồn chỉ khoảng 17.000 MW, những ngày nắng nóng thì phụ tải có thể lên 20.000 MW. Theo đó, công suất tiết giảm ở thời điểm cao nhất khoảng 30% công suất sử dụng. Còn về sản lượng điện trung bình cả ngày xấp xỉ 6-10%, những ngày trời mát sản lượng tiết giảm 6% sản lượng.

Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc Gia (A0) đã căn cứ Thông tư 34 của Bộ Công Thương để phân bổ công suất sử dụng cho Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) và Tổng công ty Điện lực thành phố Hà Nội (EVNHanoi).

Theo đó, EVNHanoi và EVNNPC sẽ phân bổ cho các cơ quan điện lực từng tỉnh, điện lực địa phương sẽ xây dựng kế hoạch theo thứ tự ưu tiên từng loại khách hàng. Trên nguyên tắc đó, các công ty điện lực sẽ báo cáo, thông qua UBND tỉnh về các phương án và thực hiện tiết giảm.

Về cách thức tiết giảm điện trong thời gian qua, đại diện Ban Kinh doanh thuộc EVN cho biết ngay từ đầu tháng 6/2023, EVN đã triển khai theo đúng Thông tư 34 và thực hiện mức tiết giảm khoảng 30% công suất, tương đương 6-10% sản lượng tiêu thụ ở miền Bắc.

Việc tiết giảm được tính toán lập kế hoạch dựa trên nguyên tắc ưu tiên khách hàng sử dụng điện quan trọng được UBND tỉnh phê duyệt và ưu tiên hoạt động phục vụ chính trị, xã hội quan trọng. Bên cạnh đó, ưu tiên khách hàng tùy theo từng địa phương, căn cứ thực tế xã hội, địa phương như sinh hoạt dân cư, thương mại dịch vụ, các phụ tải sản xuất mặt hàng thiết yếu như nước sạch, chế biến thực phẩm, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động...