
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Tư, 08/10/2025
Đặng Khánh Duy
08/12/2008, 12:08
Tập đoàn kinh tế có lẽ nên là danh hiệu hơn là mô hình doanh nghiệp bị pháp luật điều chỉnh
Gần đây, dư luận lại một lần nữa xôn xao về dự thảo nghị định về việc hình thành, tổ chức, hoạt động và quản lý đối với tập đoàn kinh tế nhà nước.
Khoan bàn luận về việc có cần thiết phải có nghị định này hay không, trong bài viết này, người viết chỉ xin bàn luận về khái niệm thế nào là tập đoàn kinh tế, bởi nếu không nhận rõ được khái niệm này thì dù có xây dựng bao nhiêu mô hình, ban hành bao nhiêu nghị định thì kết quả đem lại sẽ không thể cao.
Cho đến thời điểm này, mặc dù có nhều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả các khái niệm về tập đoàn kinh tế đều thống nhất ở một điểm. Theo đó, tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Mặc dù thống nhất như vậy nhưng trong tư duy, hình như các nhà làm luật và các chuyên gia kinh tế vẫn đang vướng mắc ở một vấn đề. Đó là độ lớn của tập đoàn kinh tế.
Nguyên nhân của những tranh cãi có lẽ bắt nguồn từ các nghiên cứu được coi là “sách giáo khoa” trong vấn đề này. Khi nói về tập đoàn kinh tế, hầu như tất cả mọi tài liệu đều cho rằng, tập đoàn kinh tế có các đặc điểm sau: có quy mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng; có cơ cấu sở hữu, tổ chức, cơ chế điều hành phức tạp
Cũng chính bởi những đặc điểm thường thấy này nên ai cũng nghĩ tập đoàn kinh tế là phải “lớn”. Nhưng vấn đề là ở chỗ cho đến nay không ai rõ thế nào là “lớn”. Vì thế, có vẻ người ta cứ cố lần mò thành lập cái mà bản thân họ cũng không biết rõ đó là cái gì.
Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, điều 146, khoản 2 có ghi: “Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: a) Công ty mẹ - công ty con; b) Tập đoàn kinh tế; c) Các hình thức khác”.
Theo hiểu biết có thể còn hạn chế của người viết, công ty mẹ - công ty con là một dạng của tập đoàn kinh tế. Không biết vì sao Luật Doanh nghiệp lại tách thành hai hình thức nhóm công ty khác nhau. Có lẽ vì người soạn luật nghĩ rằng: “Tập đoàn kinh tế” là phải “lớn”, còn nếu “nhỏ” thì không phải là tập đoàn kinh tế mà chỉ là công ty mẹ - công ty con?
Tuy nhiên, phải chăng vì bản thân người soạn luật cũng không biết “lớn” là phải như thế nào nên đành đẩy quả bóng “trách nhiệm” sang Chính phủ trong điều 149 của Luật Doanh nghiệp: “Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế.”
Sự lằng nhằng trong tư duy này đã dẫn đến một loạt những vấn đề mà không cẩn thận càng đi càng trở nên "lạc trong rừng rậm”.
Giả sử cứ cho rằng tập đoàn kinh tế là phải lớn và Chính phủ đưa ra một con số nào đó về vốn điều lệ ở công ty mẹ để quy ước như trong dự thảo nghị định vừa lấy ý kiến. Mọi chuyện dường như thật đơn giản.
Tuy nhiên, sự phức tạp lại bắt đầu từ đây. Giả sử vốn điều lệ của công ty mẹ không thấp hơn 3.000 tỷ đồng được coi là tập đoàn kinh tế. Vậy nếu vì một lý do nào đó, công ty mẹ phải giảm vốn điều lệ xuống dưới 3.000 tỷ thì phải chăng nhóm doanh nghiệp đó sẽ không được coi là tập đoàn kinh tế nữa?
Khi đã không còn là tập đoàn kinh tế có thể một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh tập đoàn kinh tế sẽ không còn hiệu lực điều chỉnh nhóm doanh nghiệp này. Sau đó, giả sử công ty mẹ lại tăng vốn điều lệ lên trên 3.000 tỷ. Hoạt động của nhóm doanh nghiệp này lại bị chi phối bởi các quy định của pháp luật liên quan đến tập đoàn kinh tế. Vậy nhóm doanh nghiệp này sẽ phải điều hành hoạt động thế này, nhà nước phải quản lý ra sao?
Mặt khác, nếu quy định mức vốn đủ lớn mới có thể trở thành tập đoàn kinh tế thì trở thành tập đoàn kinh tế có lợi ích gì? Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân nữa khiến người ta vẫn cứ tranh luận với nhau là tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân không vì nếu không có tư cách pháp nhân, không có sự khác biệt gì với nhóm doanh nghiệp khác thì có lẽ cũng chẳng cần thành lập tập đoàn kinh tế làm gì.
Trong trường hợp đó, tập đoàn kinh tế có lẽ nên là danh hiệu hơn là mô hình doanh nghiệp bị pháp luật điều chỉnh.
Hơn nữa, quy định độ lớn của nhóm doanh nghiệp cũng không thể đơn giản chỉ là vốn điều lệ ở công ty mẹ được. Tại sao lại lấy vốn của một doanh nghiệp thành viên (dù là công ty mẹ) để đại diện cho cả tập đoàn? Phải chăng chính sự vương vấn trong tư duy đó đã dẫn đến việc trong tên một loạt các công ty mẹ tại các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay có thành tố “tập đoàn”.
Thực tế cho thấy, việc có thành tố này trong tên gọi đã dẫn đến tình trạng khi nói Tập đoàn Dầu khí chẳng hạn, người ta không hiểu là nói về công ty mẹ hay là nhóm công ty trong tập đoàn. Cũng chính sự không rõ ràng này mới dẫn đến tranh cãi tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân hay không.
Tóm lại, theo quan điểm của người viết, chỉ nên hiểu tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ “huyết thống” trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề chỉ là định nghĩa mối quan hệ “huyết thống” ấy và tìm cách điều chỉnh mối quan hệ ấy khi cần thiết.
Không nên nghĩ rằng một nhóm doanh nghiệp nào đó phải "lớn" mới là tập đoàn kinh tế. Nếu cứ suy nghĩ như vậy, e rằng việc tranh cãi xung quanh khái niệm tập đoàn kinh tế vẫn cứ sẽ là một chủ đề không có hồi kết.
Phạm vi đánh giá sẽ bao gồm việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bao gồm các chế độ hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp...
Thanh Hóa đang đứng trước yêu cầu vừa bảo đảm môi trường đầu tư thông thoáng, vừa tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp và xuất nhập khẩu phát triển bền vững. Tại hội nghị do Tỉnh ủy Thanh Hoá tổ chức, nhiều vấn đề và nguyên nhân hạn chế đã được phân tích, cùng các giải pháp đồng bộ được đề xuất...
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó đặt mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong nền kinh tế và đóng góp 55 - 58% GDP đất nước. Nghị quyết được kỳ vọng sẽ mở ra kỷ nguyên đột phá cho khu vực kinh tế năng động này. Tuy nhiên, để phát huy vai trò, đưa kinh tế tư nhân trở thành “động lực quan trọng nhất” và là “lực lượng tiên phong” của nền kinh tế, đồng thời “vươn tầm” trong hội nhập quốc tế, tại Diễn đàn: “Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2025”, các ý kiến đóng góp đặc biệt nhấn mạnh đến việc phải tìm ra các giải pháp để khơi thông các điểm nghẽn, tháo gỡ rào cản thể chế; tạo ra môi trường thuận lợi, an toàn, minh bạch; huy động tối đa nguồn lực; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới. Tạp chí Kinh tế Việt Nam / VnEconomy trân trọng giới thiệu một số ý kiến tiêu biểu.
Không chỉ là nơi giao lưu giữa các doanh nghiệp chuyên ngành, nhà đầu tư và khách tham quan, triển lãm ngành nhựa và cao su Châu Á lần thứ 23 (vIETNAMpLAS 2025) còn nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển của ngành nhựa - cao su Việt Nam, duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác cũng như khai thác những cơ hội mới trong thị trường đầy sôi động này.
Tối 22/8, tại Thanh Hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Tọa đàm tham vấn hoàn thiện sản phẩm du lịch với chủ đề “Hương sắc bốn mùa”, thu hút hơn 60 đại biểu là đại diện các đơn vị, doanh nghiệp lữ hành, dịch vụ trong cả nước tham gia. Trước đó, đoàn đã có chuyến khảo sát nhiều điểm du lịch trên địa bàn tỉnh trong hai ngày 21 – 22/8.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: