Thủ tướng chủ trì phiên họp Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số
Chủ trì phiên họp thứ ba của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số sáng 8/8, Thủ tướng Phạm Minh Chính - Chủ tịch Ủy ban - một lần nữa nhấn mạnh chuyển đổi số là chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, là công việc phải thường xuyên, liên tục theo dõi, đánh giá, đôn đốc, chỉ đạo sát sao và quyết liệt triển khai...
"Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải đẩy mạnh chuyển đổi số một cách nhanh chóng, hiệu quả và thực chất, triển khai các nhiệm vụ toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó", Thủ tướng nêu rõ.
Theo Thủ tướng, nhiệm vụ của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số là rất nặng nề; phải chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính; xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh; tạo thuận lợi cho việc triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam.
Theo Kế hoạch hoạt động, Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số họp định kỳ hàng quý. Phiên họp thứ 3 nhằm đánh giá kết quả chuyển đổi số 6 tháng đầu năm 2022 và xác định những hướng giải pháp, nhiệm vụ chuyển đổi số thời gian tới.
Tại cuộc họp, Bộ Thông tin và Truyền thông đã báo cáo về tình hình chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm 2022.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU ĐẶT RA NĂM 2022
Theo đó, một số kết quả nổi bật trong 6 tháng đầu năm gồm Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổng hợp và công bố 55 bài toán chuyển đổi số của các bộ, ngành và địa phương tại địa chỉ: https://c63.mic.gov.vn/
Tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định đạt 71,79 Mbps, tăng 32,7% so với cùng kỳ năm 2021. Tốc độ truy cập mạng băng rộng di động đạt 35,29 Mbps, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2021.
Chỉ tiêu |
6 tháng |
Năm 2022 |
Các chỉ tiêu đã đạt được |
||
Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử |
100% |
100% |
Tỉ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ |
11,27% |
7% |
Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi có tài khoản thanh toán |
66% |
65% |
Các chỉ tiêu cần tiếp tục nỗ lực trong 6 tháng cuối năm |
||
Tỷ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh |
70,91% |
85% |
Tỷ lệ hộ gia đình Internet cáp quang băng rộng |
71,75% |
75% |
Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ |
45,78% |
80% |
Tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính xử lý trực tuyến |
36,91% |
50% |
Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử |
33% |
50% |
Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính Bộ phận một cửa cấp bộ, cấp tỉnh Bộ phận một cửa cấp huyện |
- |
100% 100% |
Tỷ lệ báo cáo của cơ quan nhà nước được thực hiện trực tuyến |
- |
50% |
Tỷ lệ cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu mở |
3% |
50% |
Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số |
6% |
30% |
Các doanh nghiệp viễn thông di động đã triển khai phủ sóng được 477/832 thôn lõm sóng viễn thông. Bàn giao cho các tỉnh là 457.249 máy tính trong Chương trình "Sóng và máy tính cho em". Số thuê bao di động sử dụng dịch vụ Mobile Money tăng 4 lần so với tháng 1/2022.
35/35 nền tảng số quốc gia đã hoàn thành phát triển, công bố và đưa vào sử dụng, trong đó có 31 nền tảng số đã đưa vào sử dụng chính thức, 4 nền tảng số đang sử dụng thử nghiệm.
Ngoài ra, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các bộ, ngành chỉ đạo phát triển, đánh giá và công bố 50 nền tảng số, trong đó có 18 nền tảng phục vụ Chính phủ số, 16 nền tảng phục vụ kinh tế số và 16 nền tảng phục vụ xã hội số.
63/63 địa phương đã được giao nhiệm vụ triển khai sử dụng tối thiểu 01 nền tảng số; 43/63 địa phương đã công bố lựa chọn nền tảng số triển khai năm 2022 lồng ghép trong kế hoạch chuyển đổi số; 8/63 địa phương đã công bố lựa chọn nền tảng số triển khai năm 2022 bằng một văn bản riêng của UBND tỉnh, thành phố.
Doanh thu an toàn thông tin mạng đạt 1.418 tỷ đồng, tăng 48,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tỷ lệ nhóm sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng của Việt Nam so với 22 nhóm sản phẩm hệ sinh thái an toàn thông tin mạng đạt 95,5%. Tỷ lệ sản xuất/nhập khẩu tháng 6/2022 đạt 72,6%.
Về phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được đẩy mạnh triển khai, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến và các tiện ích cho người dân và doanh nghiệp.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm quản lý thông tin của 27 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của 98 triệu người dân.
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc có khoảng 28 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có trên 7 triệu trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định; trên 6 triệu dữ liệu đăng ký kết hôn; trên 4 triệu dữ liệu đăng ký khai tử.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp chứa thông tin đăng ký doanh nghiệp theo thời gian thực của hơn 01 triệu doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc; tỷ lệ số hóa hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đạt 100%.
Tỷ lệ dịch vụ công đủ kiều kiện được cung cấp trực tuyến mức độ 4 là 97,3%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ là 45,7%, gấp 1,6 lần so với cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến là 36,9%, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2021.
Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP đến hết 6 tháng đầu năm ước tính là 10,41%. Tỉ trọng này năm 2021 ước tính là 9,6%. Mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là 20%.
Số lượng doanh nghiệp công nghệ số ước đạt 67.300 doanh nghiệp, tăng gần 3.500 doanh nghiệp so với tháng 12/2021, đạt tỷ lệ 0,69 doanh nghiệp trên 1.000 dân.
Tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử đạt 99%; tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động sử dụng hoá đơn điện tử là 100%.
Trong 5 tháng đầu năm 2022, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 76% về số lượng và 30,6% về giá trị so với cùng kỳ 2021, trong đó, qua điện thoại di động và QRCode có mức độ tăng trưởng ấn tượng nhất. Qua điện thoại di động tăng 99,1% về số lượng và 86,1% về giá trị, qua QRCode tăng 68,9% về số lượng và 113,2% về giá trị so với cùng kỳ 2021.