“Thực phẩm bẩn đang đe dọa sức khoẻ hàng ngày”
Ghi nhận từ hội thảo về nông nghiệp an toàn, diễn ra sáng 15/7 tại Hà Nội
Nông sản, thực phẩm không an toàn từ khâu sản xuất đến quy trình chế biến, bảo quản và tiêu thụ, thực sự, đang là vấn nạn đối với ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam hiện nay.
Thực tế này, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, niềm tin của người tiêu dùng mà còn dẫn đến nguy cơ mất cân bằng trong cơ cấu phát triển nông nghiệp, kém hiệu quả cả về giá trị kinh tế và ý nghĩa nhân văn.
Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo các Bộ, ban ngành chức năng và liên quan triển khai hàng loạt các hoạt động quản lý, can thiệp trực tiếp và truyền thông rộng rãi, minh bạch vấn đề này.
Nhằm tiếp tục nỗ lực cùng các cơ quan chức năng đánh giá hiện trạng, triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng nông sản Việt, Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức hội thảo nông nghiệp an toàn: “Giải pháp thúc đẩy trách nhiệm thực thi trong quản lý chuỗi giá trị nông nghiệp” vào lúc 8.00-11.30, ngày 15/7/2016 tại Khách sạn Fortuna Hà Nội.
Đoàn chủ tọa hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
“Thực phẩm không an toàn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trầm trọng”
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương đã nhiệt liệt chào mừng các quý vị đại biểu tham dự Hội thảo “Giải pháp thúc đẩy trách nhiệm thực thi trong quản lý chuỗi giá trị nông nghiệp” được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội.
Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học trong nước và quốc tế mà còn có sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong cả nước.
Hội thảo tổ chức vào thời điểm này có ý nghĩa rất thiết thực, cung cấp thông tin, luận cứ khoa học và thực tiễn giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạch định chính sách và tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng.
Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế về phát triển nông nghiệp. Trong những năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, Nhà nước, nông nghiệp Việt Nam đã liên tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển đất nước, nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Những thành quả đó là nhờ sự đổi mới về thể chế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới tư duy quản lý trong nông nghiệp.
Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực, đến nay không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho hơn 90 triệu dân, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng và nhiều mặt hàng xuất khẩu đứng trong tốp đầu của thế giới.
Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội và những thách thức trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt; tăng trưởng và giá trị gia tăng trong ngành nông nghiệp trong những năm gần đây có xu hướng giảm và vấn đề mất vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Thực phẩm không an toàn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực, sinh kế, đời sống và sức khỏe của người dân, thậm chí còn ảnh hưởng đến chất lượng giống nòi Việt Nam, hơn nữa là niềm tin của người tiêu dùng trước những giá trị về kinh tế, văn hóa và đạo đức của các sản phẩm do con người tạo ra và tác động đến quyết định đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm có khoảng 10% dân số thế giới bị ngộ độc do ăn thức ăn nhiễm độc, trong số đó có hàng trăm nghìn người bị chết vì nguyên nhân thực phẩm không an toàn.
Ở Việt Nam, tỷ lệ thực phẩm chưa an toàn còn rất cao. Số lượng các vụ ngộ độc thực phẩm cũng như số người bị nhiễm độc thực phẩm do các tác nhân nấm mốc, vi sinh vật, thuốc tăng trọng, thuốc kích thích sinh trưởng, kháng sinh, thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản, thuốc chống ẩm mốc… còn xuất hiện, tồn dư trong thực phẩm sử dụng hàng ngày của người tiêu dùng còn khá cao, đặc biệt là các trường hợp mắc bệnh nhiễm trùng bởi thực phẩm. Con số thống kê ngộ độc thực phẩm cho thấy số vụ và số người bị ngộ độc không giảm trong những năm gần đây mà còn có dấu hiệu gia tăng.
Các diễn giả, đại biểu tham dự hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng trên là do phương thức sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn lạc hậu, nhỏ lẻ; quản lý chất lượng sản phẩm còn lỏng lẻo ở nhiều khâu trong chuỗi từ sản xuất, chế biến, vận chuyển, bao gói, tiêu thụ thực phẩm; nhận thức và ý thức, trách nhiệm về an toàn của các tổ chức, cá nhân tham gia chuỗi sản xuất, quản lý còn nhiều hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát, chế tài xử phạt và xử chưa đủ sức răn đe.
Thực tế này đã đặt ra yêu cầu cần có những rà soát, đánh giá tổng thể, nhận diện các vấn đề cốt lõi, tiềm ẩn và hiện hữu; các nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng trên, từ đó, có những giải pháp phù hợp và hiệu quả nhằm đạt được sự cải thiện trên thực tế trong ngắn hạn và lâu dài.
Để nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giống nòi, tăng tuổi thọ và sức khỏe của người Việt Nam, vấn đề đảm bảo dinh dưỡng và an toàn thực phẩm đã được đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược dài hạn trong Chiến lược phát triển bền vững ở nước ta.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo ngành các cấp các ngành, địa phương huy động nguồn lực con người và lợi thế tự nhiên để phát triển nông nghiệp xanh, sạch, bền vững, an toàn góp phần quan trọng vào xoá đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân nông thôn, cải thiện sức khỏe, dinh dưỡng và cuộc sống cho nhân dân.
Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư về Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới đã nêu rõ: “Chú trọng việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, tổ chức thực hiện đồng bộ hiệu quả các chính sách và pháp luật về an toàn thực phẩm. Sớm ban hành chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm đến năm 2020 và đẩy nhanh việc hướng dẫn thực hiện Luật An toàn thực phẩm và các quy chuẩn về an toàn thực phẩm; nghiên cứu phát hiện, điều chỉnh, bổ sung kịp thời các quy định liên quan cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế; phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương”.
Ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương - Ảnh: Việt Tuấn.
Và mới đây, ngày 9/5/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị thị số 13/CT-TTg về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm toàn thực phẩm, yêu cầu: Đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhất là của chính quyền địa phương về an toàn thực phẩm trên địa bàn; coi đây là nhiệm vụ cần tập trung, ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực cho công tác này.
"Tại Hội thảo này, tôi hy vọng và tin tưởng rằng, những ý tưởng, những sáng kiến quý báu của quý vị sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sản xuất thực phẩm sạch, an toàn, để nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam. Ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững", ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương, nhấn mạnh.
GS. Đào Nguyên Cát - Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam (phải) và ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) - Ảnh: Việt Tuấn.
Thực phẩm bẩn đang đe dọa sức khoẻ, cuộc sống hàng ngày
Phát biểu tại hội thảo, ông Hồ Quang Lợi, Phó chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam, cho biết hội thảo này có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong bối cảnh hiện nay. Bây giờ chỉ cần khoá từ khoá "thực phẩm bẩn” ngay lập tức nhận được 4 triệu kết quả trong vòng 0,24' trên Google. Điều này cho thấy sự quan tâm của toàn xã hội. Cơ quan thông tấn báo chí vừa qua đã thực hiện nhiều sản phẩm báo chí về thực phẩm bẩn, VTV có chương trình "Nói không với thực phẩm bẩn". Thực phẩm bẩn đang đe dọa sức khoẻ, cuộc sống hàng ngày.
Tầm vóc của người Việt trong top 4 cuối của thế giới. Với thực trạng thực phẩm bẩn, chất lượng giống nòi của Việt Nam đang bị đe doạ. Báo chí, truyền thông đã góp phần lớn giúp cơ quan chức năng thanh lọc, loại bỏ các thực phẩm bẩn khỏi cuộc sống nhưng vẫn ít ỏi so với vấn nạn thực phẩm bẩn tràn lan hiện nay.
Ông Hồ Quang Lợi nhấn mạnh vấn nạn thực phẩm bẩn đã gây hoang mang cho toàn xã hội. Cuộc chiến này dù có sự tham gia nhiều bên nhưng vẫn chưa thể đẩy lùi vấn nạn này. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng nông nghiệp an toàn, loại bỏ thực phẩm ra khỏi xã hội. Vì vậy, phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm sạch. Cơ quan báo chí truyền thông cần có thông điệp tích cực tránh gây hoang mang.
Ông Hồ Quang Lợi, Phó chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam - Ảnh: Việt Tuấn.
“Tôi đánh giá cao sáng kiến, nỗ lực của Thời báo Kinh tế Việt Nam đã tổ chức hội thảo này, tôi tin tưởng với sự tham gia của hàng trăm cơ quan báo chí có mặt tại hội thảo, thông điệp chống thực phẩm bẩn, tạo nền nông nghiệp an toàn bền vững sẽ được báo chí truyền thông hiệu quả hơn. Đây là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng hình ảnh uy tín quốc gia, góp phần phát triển giống nòi Việt Nam”, ông Hồ Quang Lợi kết luận.
Đông đảo các cơ quan thông tấn báo chí đã tới tham dự hội thảo.
Minh bạch, công khai luật
Mở đầu phiên 1, về hiện trạng vấn đề an toàn các mặt hàng nông sản, thực phẩm của Việt Nam và các chương trình hành động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển đã triển khai thời gian qua, ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục quản lý chất lượng Nông lâm và Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết, về khung pháp luật và chính sách, các thành tố quan trọng trong quản lý an toàn thực phẩm, quản lý dựa trên nguy cơ, kiểm soát nguy cơ an toàn thực phẩm từ trang trạng tới bàn ăn.
Quy định, quy chuẩn, quy trình kiểm soát An toàn thực phẩm dựa trên cơ sở khoa học, hài hoà với chuẩn mực thông lệ quốc tế.
Quy định rõ trách nhiệm của các bên, trách nhiệm đảm bảo an toàn thực phẩm trước tiên thuộc về cơ sở sản xuất kinh doanh.
Minh bạch, công khai luật, quy định, kết quả thanh tra, kiểm tra; Truy xuất, điều tra và xử lý nghiêm sự cố mất an toàn thực phẩm. Khuyến khích liên kết giữa sản xuất và phân phối; hỗ trợ cơ sở áp dụng GAP/HACCP và các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác. Tăng cường truyền thông giáo dục ý thức trách nhiệm về an toàn thực phẩm cho cơ sở sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan thực thi kiểm soát.
Khuyến khích đàm phán ký kết công nhận lẫn nhau hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm. Tăng cường năng lực, nguồn lực cho cơ quan quản lý an toàn thực phẩm.
Liên quan đến khung pháp lý, theo ông Hào, Luật An toàn thực phẩm và 4 luật có liên quan là Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Thanh tra (sửa đổi) và Luật về xử phạt vi phạm hành chính; Các nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thực hiện các luật tương ứng nêu trên (38/2012/NĐ-CP; 132/2008/NĐ-CP; 127/2007/NĐ-CP; 07/2012/NĐ-CP; 83/2013/NĐ-CP; 178/2013/NĐ-CP).
Ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục quản lý chất lượng Nông lâm và Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Ảnh: Việt Tuấn.
Các thông tư liên tịch: 13/2014/TTLT-BYT-BNN-BCT về phối hợp giữa 3 Bộ; 20/2013/TTLT-BYT-BNN-BCT về chỉ định phòng kiểm nghiệm thực phẩm và 34/2014/TTLT-BYT-BNN-BCT về ghi nhãn sản phẩm; Các thông tư/quy định của các Bộ Y tế về chỉ tiêu và giới hạn an toàn thực phẩm (hóa học, sinh học); Các Thông tư/quy định của Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn về trình tự thủ tục kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện An toàn thực phẩm, quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm (45/2014/TT-BNNPTNT, 08/2016/TT-BNNPTNT …).
Khung pháp lý và chính sách bao gồm: các nghị định/nghị quyết của Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ khuyến khích áp dụng GAP. Các đề án của Chính phủ về đẩy mạnh hoạt động truyền thông an toàn thực phẩm, nâng cao năng lực thanh tra chuyên ngành, xây dựng và phát triển chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn…
Như vậy, về cơ bản đã có đầy đủ căn cứ pháp lý và chính sách triển khai, nội dung quản lý và kiểm soát dựa trên nguy cơ, hài hoà với thoả thuận WTO/SPS, hệ thống tập trung.
Về phân công và phân cấp quản lý an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành quyết định số 1290/QĐ-BNN-TCCB về phân công, phân cấp nhằm làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, giữa trung ương và địa phương. Theo đó, các nguồn lực được huy động, phân công và cơ chế điều phối, phối hợp rõ ràng, phân cấp mạnh cho địa phương.
Về công tác tuyên truyền, phổ biến an toàn thực phẩm: Việc triển khai theo nhiều hình thức (Tờ rơi, Panô, áp phíc, trên VTV, VOV, Báo, Đài địa phương, hệ thống phát thanh xã phường).
Trong 6 tháng đầu năm 2016 các tỉnh/thành phố đã in, phát 718 247 tờ rơi, tờ dán; 4.808 băng rôn, khẩu hiệu, pano; 3.386 tin, bài báo; 14.802 clip, phóng sự, bản tin phát trên đài truyền hình, đài phát thanh tỉnh, huyện, xã; tổ chức 5.269 hội nghị/hội thảo, lớp tập huấn tuyên truyền về đảm bảo an toàn thực phẩm cho 405 521 lượt người dân, cơ sở sản xuất, kinh doanh tham dự; 89 652 tờ rơi, tờ dán, 1.446 băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền, hướng dẫn nhận biết và sử dụng sản phẩm nông thủy sản an toàn.
Hướng dẫn áp dụng thực hành sản xuất tốt: Tổ chức các lớp tập huấn, đặc biệt là tập huấn đầu bờ, hướng dẫn thực địa… cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản.
Về kiểm tra, phân loại và chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm, thống kê đến T6/2016 cho thấy tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu (Loại A/B) về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đã tăng lên 79,76% (lũy kế năm 2015 là 78,3%). Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xếp loại C được tái kiểm tra và nâng hạng A, B là 35,84% (lũy kế năm 2015 là 34,43%).
Giám sát an toàn thực phẩm sản phẩm nông lâm thủy sản: Tập trung giám sát sản phẩm rủi ro cao, nhiều bức xúc như thịt, rau, thuỷ sản nuôi. Kết quả giám sát cho thấy tỷ lệ mẫu vi phạm có giảm, có chuyển biến nhưng kết quả không đạt vẫn còn cao.
Kết quả 6 tháng đầu năm 2016 cho thấy: Rau có 4,2% vi phạm trong đó thuốc bảo vệ thực vật chiếm 3,98% giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (5,17%), thịt có 10,93%, trong đó vi sinh 9,7% giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (15,4%), hóa chất, kháng sinh, chất cấm, kim loại nặng (chiếm 1,3%, giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (1,91%), thủy sản nuôi (1,61%) trong đó chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh, chất cấm (chiếm 1,41%, tăng so với cuối năm 2015 (1,14%).
PGS.TS Vũ Đình Hòe - Phó tổng biên tập Thường trực Thời báo Kinh tế Việt Nam (trái) điều hành hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Thanh tra chuyên ngành chưa gắn với cảnh báo các mối nguy
Thời gian qua, các bộ ngành đã đẩy mạnh quản lý an toàn thực phẩm, tăng cường kiểm tra, thanh tra nông sản. Các trường hợp vi phạm đã bị xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, các quy chuẩn kỹ thuật chưa được rà soát kịp thời, đầy đủ. Việc phân công cho các địa phương chưa rõ ràng cụ thể. Kết quả thanh tra, giám sát an toàn thực phẩm còn phát hiện nhiều vi phạm, chưa đáp ứng yêu cầu của người dân. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ tràn lan, rất khó quản lý. Việc thanh tra chuyên ngành chưa gắn với cảnh báo các mối nguy, công đoạn trọng yếu mất an toàn thực phẩm. Chậm truy xuất, điều tra xử lý về các vi phạm.
Nhiều năm qua ngành Nông nghiệp coi an toàn thực phẩm là nhiệm vụ trọng tâm. 2016 là năm cao điểm về an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp sẽ tiếp tục rà soát các quy định, ban hành bổ sung các tiêu chuẩn kỹ thuật để siết chặt quản lý chất lượng nông sản. Công tác thanh tra sẽ được tăng cường. Công tác nâng cao chất lượng nhân lực được chú trọng. Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ, máy móc vào chế biến nông sản an toàn. Thực hiện các chuỗi sản xuất liên kết tạo ra các nông sản an toàn.
Ảnh: Việt Tuấn.
Bên cạnh đó, tổ chức triển khai các nội dung Chỉ thị 13/2016/CT-TTg, lưu ý trách nhiệm cơ quan quản lý đặc biệt cơ quan quản lý địa phương. Ban hành quy định, hướng dẫn xác nhận sản phẩm chuỗi và tổ chức triển khai nhằm củng cố niền tin của người tiêu dùng trong nước và tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Giải quyết kịp thời các vướng mắc của thị trường nhập khẩu và triển khai các giải pháp kỹ thuật với giải pháp kinh tế, thương mại, xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu và xúc tiến thương mại, quảng bá, có chính sách huy động các nguồn lực xã hội; sự tham gia của cộng đồng; khuyến khích tạo động lực cho sản xuất kinh doanh thực phẩm an toàn.
Xây dựng cách thức truy xuất nguồn gốc thực phẩm
Trình bày tham luận của mình, bà Võ Ngân Giang, đại diện FAO, cho biết thị trường của hầu hết các loại thực phẩm trên thế giới đặc trưng bởi nguồn cung dồi dào và ít bất ổn hơn trong những năm gần đây, phản ánh qua chỉ số giá lương thực thực phẩm FAO thấp trong 4 năm nay. Trừ trường hợp ngoại lệ là thị trường sản phẩm động vật - duy trì mức nhập khẩu ở con số 1 nghìn tỷ USD cho 5 thứ năm liên tiếp.
Dù hầu hết các thực phẩm được tiêu thụ trên thế giới có nguồn gốc địa phương, thương mại toàn cầu được cho là có đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực. Quy mô thương mại nông nghiệp và thực phẩm ngày nay đạt mức chưa từng có. Trên thực tế, thương mại quốc tế đã tăng gấp 5 lần so với 50 năm trước, phân bố không đều giữa các khu vực.
Các quốc gia đang phát triển được cho là có lợi thế so sánh hơn trong thương mại toàn cầu nhờ đảm bảo yêu cầu về chất lượng thực phẩm và các tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ, truy xuất nguồn gốc và thương hiệu sản phẩm.
Theo bà Giang, cán cân thương mại nông nghiệp giảm dần là một kết quả tiêu cực trong phát triển ở quốc gia mà nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào doanh thu xuất khẩu nông nghiệp, phải chuyển hướng các nguồn lực ngoại hối khan hiếm để chi trả cho việc tăng thực phẩm nhập khẩu (cuối cùng tạo nên các nguồn nợ nước ngoài không bền vững).
Quan điểm phúc lợi cho thấy, việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm như vậy không giúp làm tăng chỉ số tiêu thụ thực phẩm bình quân trên đầu người và cải thiện an ninh lương thực nhưng cần thiết để duy trì các mức tiêu thụ thực phẩm tối thiểu.
“Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng sản xuất ở hầu hết các khu vực đang phát triển thấp hơn so với nhu cầu, vì việc nhập khẩu nông sản tăng nhanh hơn xuất khẩu. Điều này làm mòn dần thặng dư thương mại truyền thống về nông nghiệp, khiến cán cân trở nên thâm hụt ròng”, bà Giang nói.
Về nhân tố tác động đến nhu cầu thực phẩm toàn cầu, theo bà Giang, thứ nhất là sự phát triển bùng nổ dân số. Dẫn nhận xét của Tổng giám đốc FAO đã nói 50 năm tới người nông dân và người sản xuất trên thế giới sẽ sản xuất ra một lượng lương thực thực phẩm nhiều hơn tổng số lương thực thực phẩm đã từng được sản xuất ra trong 10.000 năm qua bằng một cách thức bền vững với môi trường, bà Giang cũng cho biết, ở cấp độ an toàn đến năm 2050, sẽ cần một lượng thực phẩm khổng lồ mỗi năm như thêm 1 tỷ tấn ngũ cốc đến năm 2050, 1 tỷ tấn thịt bò mỗi năm, 460 triệu tấn thịt mỗi năm…
Không chỉ tăng nhu cầu thực phẩm, mà còn tăng chủng loại thực phẩm được sử dụng. Số liệu cho thấy, nhu cầu thực phẩm gia tăng của tầng lớp trung lưu rơi vào nhóm các loại thực phẩm giá trị cao như thịt, trứng, sữa và thị phần các loại này đang gia tăng. Điều này thể hiện rõ nét ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tập trung ở các thành phố lớn, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này.
Liên quan đến vấn đề truy xuất nguồn gốc, bà Giang cho biết, khái niệm này chỉ khả năng theo dõi thức ăn hoặc thực phẩm qua các công đoạn sản xuất, chế biến và phân phối cụ thể.
Nguyên tắc sản xuất, một bước tiến, một bước lùi truy xuất nguồn gốc là khả năng xác định được nguồn gốc khi có sự cố phát sinh để ngăn chặn sự lây lan hoặc thu hồi sản phẩm.
Tại hội thảo, bà Giang cũng giới thiệu về truy xuất nguồn gốc và kinh nghiệm quốc tế. Theo đó, truy xuất nguồn gốc là khả năng theo dõi thức ăn hoặc thực phẩm qua các công đoạn sản xuất, chế biến và phân phối cụ thể. Trong những năm qua các loại bệnh có nguồn gốc động vật có thể lây lan cho con người, các vi phạm sinh vật gây bệnh như H5N1… Vì vậy cần truy xuất để loại bỏ các mầm mống bệnh tật này.
Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến nguồn gốc, kênh phân phối nào, có đạt yêu cầu an toàn thực phẩm, có chứng chỉ an toàn không. Nhà sản xuất cũng phải tự hỏi người tiêu dùng có tin chất lượng sản phẩm của mình không. Khi có sự việc xảy ra cần phải nhanh chóng xác định mắt xích bị lỗi: sản xuất hay phân phối, bảo quản.
Với các cơ quan quản lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Hệ thống truy xuất hiệu quả phải có hệ thống thông tin cho phép các doanh nghiệp nông nghiệp quản lý nguy cơ tốt hơn. Hệ thống này cũng giúp phản ứng nhanh với tình huống khẩn cấp hoặc thu hồi sản phẩm. Đồng thời, giảm đáng kể thời gian đáp ứng bằng cách nhanh chóng xác định nguồn gốc và vị trí sản phẩm.
Đặc thù của hệ thống truy xuất là xác định đến từng lô của nguyên liệu. Các tác nhân trong chuỗi cần phải đăng ký, lưu giữ và chia sẻ có chọn lọc theo cấp độ có thông tin về địa chỉ, nguồn gốc, điều kiện sản xuất, thời gian.
Bà Giang nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hiệu quả các truy xuất nguồn gốc. Các yếu tố đảm bảo truy xuất: sơ đồ và cách thức tổ chức chuỗi cung ứng, số lượng và mức độ hợp tác các tác nhân, khả năng tác nhân, nguồn nguyên liệu đầu vào, năng lực quản lý, xác nhận và kiểm chứng.
Bà Võ Ngân Giang, đại diện FAO - Ảnh: Việt Tuấn.
Quản lý thực phẩm nhìn từ các nước phát triển
Kinh nghiệm quốc tế: tại Mỹ, Chính phủ nước này nhấn mạnh sự cần thiết phải truy xuất theo chuỗi cung ứng. Người nhập khẩu được yêu cầu lập và duy trì hồ sơ xác định nguồn gốc thực phẩm. Người chế biến được yêu cầu lập hồ sơ tại thời điểm chế biến.
Các hồ sơ phải bảo lưu ít nhất trong 2 năm và nếu được yêu cầu phải trình trong 4 giời nếu Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu.
Đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 đòi hỏi các cơ sở trong và ngoài nước sản xuất, chế biến, đóng gói hoặc nhập khẩu thực phẩm phải đăng ký với FDA.
Quy định để cho rau quả tươi và các thực phẩm khác nêu chi tiết trong luật hiện đại hoá an toàn thực phẩm của FDA (FSMA) năm 2011.
Hệ thống an toàn thực phẩm tăng cường tập trung vào việc ngăn ngừa các vấn đề an toàn thực phẩm hơn là phản ứng với các vấn đề sau khi chúng xảy ra.
Một điều quan trọng của phương pháp phòng ngừa là FDA được giao nhiệm vụ thiết lập cơ sở khoa học, các tiêu chuẩn tối thiểu về sản xuất, thu hoạch, đóng gói và lưu giữ sản phẩm tại trang trại nhằm giảm thiểu các nguy cơ lây nhiễm có thể gây ra cho các bất lợi sức khoẻ và gây tử vong.
FDA cũng chịu trách nhiệm phòng, kiểm tra sự tuân thủ và xử lý các trường hợp nguy cơ; FDA thành lập hệ thống truy xuất cho thực phẩm nội địa và nhập khẩu.
Tại Canada, Cơ quan Thanh tra thành phố Canada (CFIA) chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm. CFIA đang xem xét áp dụng rộng rãi hơn các yêu cầu truy xuất nguồn gốc đối với các doanh nghiệp thực phẩm theo Đạo luật an toàn thực phẩm (SFCA) của Canada năm 2012.
Ảnh: Việt Tuấn.
Chính phủ xem xét hợp nhất 4 bộ luật liên quan vào một luật chung, nhằm bảo vệ tốt hơn người Canada khỏi các nguy cơ an toàn thực phẩm.
Pháp luật cho phép tạo ra một hệ thống mạnh mẽ hơn để theo dõi các sản phẩm theo toàn bộ chuỗi sản xuất, bằng hệ thống truy xuất nguồn gốc bao gồm: tên và mã thực phẩm; tên và địa điểm kinh doanh của người sản xuất, chế biến, lưu trữ, đóng gói, dán nhãn các thực phẩm….
Hồ sơ tại Canada cũng yêu cầu phải truy cập và được duy trì trong vòng 2 năm.
Dẫn chứng trường hợp Nhật Bản, bà Giang cho biết, quy định của Nhật Bản yêu cầu hệ thống truy xuất nguồn gốc đối với thịt bò trong nước.
Đối với thực phẩm khác Luật vệ sinh thực phẩm yêu cầu người chế biến, kinh doanh lưu giữ hồ sơ để xác định tất cả các nhà cung cấp và áp dụng nguyên tắc một bước tiến, một bước lùi. Điều này tương tự như Điều 18 theo Quy định EC/EU 178/2002, tuy nhiên yêu cầu này không là bắt buộc.
Bên cạnh đó, Nhật Bản bắt buộc ghi nhãn của nơi xuất xứ đối với thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến tối thiểu cho cả bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên, theo bà Giang, dù yêu cầu dán nhãn xuất xứ, hệ thống lưu giữ hồ sơ xác minh nguồn gốc cung cấp như phiếu giao hàng, hoá đơn lại không bắt buộc.
Trong khi đó, theo bà Giang, nghiên cứu truy xuất của FAO tại Việt Nam cho thấy, chúng ta có nhiều đầu mối thông tin nhưng chưa có thông tin cơ bản, chưa có hệ thống dữ liệu để kết nối toàn bộ hệ thống.
“Truy xuất gia cầm tại Việt Nam, chưa xác định được vì chưa có mã, định danh cho từng đơn vị sản xuất đặc biệt đơn vị nhỏ lẻ. Quản lý nội bộ tuỳ nợi cũng bị gián đoạn, không xác định để truy ngược lại đơn vị cung cấp”, đại diện FAO nói.
Cuối cùng, bà Giang lưu ý các cơ quan quản lý cần chú trọng đăng ký sản xuất, phân phối sản phẩm. Ưu tiên phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, tăng cường quản lý truy xuất, quản lý chất lượng theo chuỗi.
Bà Giang cho rằng cần phải phát triển hệ thống chuỗi nhưng mấu chốt phải tạo ra một môi trường minh bạch, tạo sự tin tưởng cho người dân. Đây là việc rất lớn cần sự tham gia của nhiều bộ ngành.
“Ưu tiên về sản phẩm nông sản an toàn của Việt Nam”
Bà Lê Việt Nga - Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) chia sẻ một góc nhìn về việc ưu tiên về sản phẩm nông sản an toàn của Việt Nam. Có 5 yếu tố ảnh hưởng tới chuỗi nông sản an toàn. Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách, pháp luật bảo đảm an toàn thực phẩm.
Thứ hai, cần có sự quyết tâm, đầu tư đúng hướng, chuỗi cung ứng nông sản gắn liền với hệ thống quản lý chất lượng.
Thứ ba, cần có sự ủng hộ, đón nhận tin tưởng của người tiêu dùng.
Thứ tư, vai trò thông tin truyền thông về cung ứng chuỗi an toàn thực phẩm. Các tổ chức chính trị cùng vận động.
Về chính sách và pháp luật đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất kinh doanh nông sản an toàn. Hiện Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật An toàn thực phẩm năm 2010, phân công trách nhiệm cho từng bộ ngành, theo từng nhóm sản phẩm.
Bà Nga cho rằng bảo đảm an toàn thực phẩm là trách nhiệm của toàn xã hội. Quản lý an toàn là bảo đảm các quy chuẩn kỹ thuật, quản lý trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích mối nguy hoại. Đồng thời đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành.
Trong đó, Bộ Nông nghiệp quản lý trong quá trình sản suất, thu gom, xuất nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các ản phẩm từ thịt, thuỷ sản, rau, củ quả,...
Về phía Bộ Công Thương được giao trách nhiệm quy hoạch, phân phối các sản phẩm ở chợ, siêu thị. Chẳng hạn, lực lượng Quản lý thị trường đã thường xuyên quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng giả hàng nhái ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của nông sản an toàn.
Bà Nga nhấn mạnh, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ áp dụng các biện pháp tiên tiến kinh doanh nông sản: vốn, kỹ thuật cho chăn nuôi, công tác sơ chế, chế biến, bảo quản, lưu thông… Đồng thời cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ tiếp cận đất đai, hạ tầng thương mại phục vụ nông sản sạch. Tổ chức liên kết sản xuất và lưu thông.
Về một số chương trình, dự án tiêu biểu hỗ trợ bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất kinh doanh nông sản, bà Nga cho biết chương trình mục tiêu quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2012-2015 góp phần bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi người tiêu dùng đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Bà Lê Việt Nga - Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) - Ảnh: Việt Tuấn.
Chương trình VietGap và dự án Lifsap nâng cao năng lực cạnh tranh và an toàn thực phẩm ngành chăn nuôi. Số liệu Bộ Công Thương cho thấy đây là dự án tiêu biểu chăn nuôi, giết mổ tốt, chế biến và tiêu thụ vật nuôi đi kèm tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm trong chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi.
Bộ Công Thương thời gian qua đã lồng ghép các vấn đề như làm thế nào hỗ trợ nông nghiệp đưa ra thực phẩm an toàn cho người dùng trong nước, ban hành quy hoạch về chợ, siêu thị, cửa hàng tiện lợi… Khuyến khích chính quyền địa phương đầu tư cải tạo chợ, xây dựng mô hình thí điểm chơ an toàn thực phẩm tại 32 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
“Triển khai mô hình chuỗi sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm, phối hợp Cục thuộc Bộ Nông nghiệp đưa sản phẩm nông sản sạch, phối hợp Sở Công thương Hà Nội, Đà Nẵng, Tp.HCM tổ chức kết nối cung cầu hàng hoá giữa các cơ sở công nghiệp nông thôn với hệ thống. Phối hợp với Sở Công thương Tp.HCM tổ chức hoạt động kết nối cung cầu hàng hoá giữa Tp.HCM với các tỉnh thành Đông Nam Bộ, hơn 1300 hợp đồng được ký kết, đủ đáp ứng 40-50% tuỳ loại nông lâm thuỷ sản cung cấp cho Tp.HCM”, bà Nga dẫn số liệu.
Về hiện trạng xây dựng chuỗi cung ứng nông sản gắn liền với hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm chuyên nghiệp của các doanh nghệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn tại Việt Nam bà Nga cho biết, chuỗi ngang đã được hình thành là hệ thống các siêu thị đã được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm như Metro với 19 cơ sở, Big C với 32 cơ sở, Fivimart với 18 cơ sở, Vinmart + với trên 200 cơ sở… và hệ thống các cửa hàng chuyên doanh BigGreen, T&T, BacTom.. Chuỗi mô hình thí điểm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp tại 12 tỉnh.
Cũng theo bà Nga, theo chuỗi dọc, hệ thống chuỗi được Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản xác nhận thí điểm là 85 cơ sở tại 18 tỉnh, thành phố, hệ thống VinEco, FVF…
Nhận xét về chuỗi cung ứng nông sản an toàn tại Việt Nam, bà Nga cho biết, các kênh phân phối hiện đại tổ chức theo chuỗi hiện chiếm khoảng trên 25% lượng tiêu thụ nông sản tươi sống và đang phát triển mạnh cùng với sự ra đời của các cơ sở phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng phân phối nông sản thực phẩm chuyên doanh và các chương trình kết nối cung cầu do Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp tổ chức.
Theo bà Nga, các hình thức chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam phong phú, đa dạng, hoạt động hiệu quả, chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp có sẵn hệ thống phân phối bán lẻ có hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm chuyên nghiệp.
Thực phẩm an toàn qua các kênh phân phối hiện đại sẽ chiếm trên 40% thị phần năm 2020
“Tuy còn phải đối diện với nhiều thách thức nhưng cung ứng nông sản theo chuỗi là xu hướng phát triển mạnh trong 5 năm tới cũng như những năm tiếp theo. Dự báo đến năm 2020 nông lâm thuỷ sản an toàn phân phối tại các kênh phân phối hiện đại có thể chiếm trên 40% thị phần trong nước”, bà Nga cho biết.
Về vai trò người tiêu dùng trong hỗ trợ xây dựng chuỗi cung ứng nông sản an toàn, bà Nga cho rằng, cần chấp nhận và ủng hộ nông sản có xuất xứ, xác nhận an toàn với giá cả hợp lý, “nói không với thực phẩm bẩn”. Đồng thời, phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội có chức năng giám sát, phát hiện các hành vi gian lận thương mại, vi phạm hình sự lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn.
Bà Nga cũng cho rằng, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam có vai trò tuyên truyền, vận động và kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm. Cơ quan này đã ban hành Chương trình Số 90/CtrPH/CP-CTUBTWMTTQVNHà Nội ngày 30/3/2016 phối hợp vận động và giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm giai đoạn 2016-2020. Chương trình sẽ tập trung vào việc nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi, phải làm sao để người sản xuất thấy được họ vừa là người làm ra sản phẩm nhưng cũng là người tiêu dùng.
Bà Nga nhấn mạnh vai trò của hội nông dân, đó là tăng cường vận động nông dân sản xuất, kinh doanh sản xuất nông nghiệp bảo đảm an toàn thực phẩm. Đồng thời, xây dựng và nhân rộng các mô hình nông nghiệp thuỷ hải an toàn, quảng bá, hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản an toàn. Các hiệp hội bán lẻ, hiệp hội chợ Việt Nam và các tổ chức tăng cường kinh doanh thực phẩm sạch, đầu mối liên kết tiêu thụ nông sản an toàn. Giúp người tiêu dùng nhận thức được tầm quan trọng, địa điểm kinh doanh. Người sản xuất, kinh doanh phát triển chuỗi cung ứng nông sản theo chiều rộng và chiều sâu.
Tại hội thảo, bà Nga cũng chỉ ra một số tồn tại như khó tiêu thụ nông sản an toàn do giá thành cao so với bộ phận người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp. phần lớn các dự án, mô hình khi thực hiện “thí điểm” thì thành công nhưng đến khi nhân rộng đại trà lại gặp khó khăn hoặc dừng thực hiện khi hết hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, điều kiện cơ sở vật chất sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn còn nhiều hạn chế…
Đồng thời, khuyến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các bộ ngành, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp trong triển khai chương trình kết nối để hỗ trợ tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm an toàn.
Bên cạnh đó, địa phương cần quan tâm công tác đầu tư nâng cấp hạ tầng thương mại đặc biệt chợ truyền thống, tổ chức vùng nông sản an toàn cung ứng cho kênh phân phối trên địa bàn.
Các doanh nghiệp tiếp tục áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như VietGap, ISO và đăng ký cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong sản xuất và kinh doanh tại hệ thống của các Bộ ngành tổ chức, phân cấp.
Bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank - Ảnh: Việt Tuấn.
70% dư nợ cho vay của Agribank đối với nông nghiệp - nông thôn
Phát biểu tại hội nghị, bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank nhìn nhận, có một vấn đề đang tồn tại mà chúng ta phải thừa nhận đó là nền nông nghiệp của Việt Nam đang duy trì phương thức sản xuất cũ, lạc hậu, đa phần đang sản xuất manh mún, mạnh ai người ấy làm theo kiểu tự phát, việc sử dụng tràn lan không kiểm soát các chất cấm trong sản xuất ở tình trạng đáng báo động, chất lượng đầu ra của sản phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, tính liên kết hạn chế, nếu không nói là yếu kém, ứng dụng công nghệ cao mới bắt đầu triển khai ở giai đoạn thí điểm… dẫn đến chất lượng hàng hóa nông sản Việt Nam rất khó tìm được chỗ đứng ở các thị trường tiềm năng nhưng khắt khe khi đặt tiêu chuẩn chất lượng lên hàng đầu.
Còn ở thị trường nội địa, người dân phải đối mặt với tình trạng thực phẩm bẩn, không an toàn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và niềm tin của người tiêu dùng. Trong khi đó, với hàng loạt FTA và TPP vừa được ký kết, cơ hội để hàng hóa các nước tràn vào thị trường Việt Nam và hàng nông sản Việt mất chỗ đứng ngay trên “sân nhà” đang ngày càng hiện hữu.
Để thay đổi được tình trạng này và phát triển bền vững theo hướng nông sản sản xuất ra đảm bảo chất lượng và tìm được đầu ra, đem lại nhiều giá trị cho các bên tham gia, điều cốt lõi quyết định đó là chúng ta cần thay đổi được nhận thức và ngay lập tức hành động từ việc thay đổi phương thức sản xuất, quy trình sản xuất, tăng tính liên kết, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao… cùng sự phối hợp đồng bộ và quyết liệt từ tất cả các bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, người dân, người tiêu dùng.
Theo lãnh đạo Agribank, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Agribank luôn là ngân hàng chủ lực, gắn bó, đồng hành, hỗ trợ nguồn vốn tín dụng để bà con nông dân, doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp; luôn đi đầu và chủ lực trong đầu tư tín dụng cho 8 chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cho vay phát triển thuỷ sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP...và phần lớn các hộ gia đình, các doanh nghiệp trong vùng bị thiệt hại đều được Agribank cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống.
Với nhận thức sâu sắc, chính tăng trưởng bền vững đem lại thu nhập ổn định cho người sản xuất kinh doanh và giúp Agribank giảm thiểu các rủi ro tín dụng, do đó bên cạnh việc mở rộng đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng, Agribank luôn chú trọng tín dụng vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững, bảo vệ môi sinh, môi trường.
Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, sổ tay tín dụng của Agribank luôn gắn việc thẩm định dự án, phương án vay vốn với vấn đề đảm bảo môi sinh, môi trường, các dự án phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt của cấp thẩm quyền theo quy định của pháp luật, kiên quyết loại trừ cấp tín dụng đối với các dự án có khả năng ảnh hưởng lớn và nghiêm trọng đến môi trường - xã hội, bà Nguyễn Thị Phượng nói.
Tính đến 30/6/2016, dư nợ cho vay của Agribank đối với nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 70% dư nợ cho vay của ngân hàng, trong đó một số chương trình cho vay gắn với phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững như sau:
Cho vay theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (bao gồm cả Nghị định 41/2010/NĐ-CP): Dư nợ đạt 277.422 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2015 và tăng 52,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cho vay thông qua tổ liên kết: Tổng dư nợ trên 58 nghìn tỷ đồng, thông qua trên 44 nghìn tổ vay vốn với trên 1 triệu thành viên.
Cho vay Chương trình xây dựng nông thôn mới: Chương trình xây dựng nông thôn mới đã triển khai đến toàn bộ các xã trên địa bàn cả nước theo chủ trương của Chính phủ. Dư nợ đạt trên 271 nghìn tỷ đồng, tăng trên 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái, với trên 2,5 triệu khách hàng.
Cho vay ưu đãi lãi suất đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và thông tư 06/2009/TT-NHNN: Dư nợ đạt trên 2.800 tỷ đồng, tăng trên 32,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với trên 58 nghìn khách hàng còn dư nợ.
Cho vay tái canh cà phê theo Văn bản 3227/NHNN-TD ngày 11/05/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Dư nợ đạt 761 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái, số lượng khách hàng còn dư nợ là 6.580 khách hàng.
Cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản: Dư nợ cho vay đóng mới, nâng cấp tàu khai thác 983 tỷ đồng, số tàu đã cho vay: 203 tàu; cho vay đóng mới, nâng cấp tàu dịch vụ hậu cần dư nợ: 287 tỷ đồng, số tàu đã cho vay: 52 tàu.
Cho vay thí điểm phát triển chuỗi liên kết và ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao theo Nghị quyết 14/2014/NQ-CP của Chính phủ: dư nợ đạt 653 tỷ đồng… Thực tế cho thấy, tất cả các đối tác tham gia chuỗi liên kết đều giảm được chi phí hoạt động, sản phẩm đầu ra tìm được chỗ đứng tại các thị trường giàu tiềm năng nhưng cũng rất khắt khe về các tiêu chí xanh, sạch, an toàn...
“AgriBank tiếp tục rà soát, sửa đổi hoặc ban hành mới cơ chế chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp theo hướng gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp quy định của pháp luật, không đầu tư tín dụng nếu dự án chưa được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng, phát triển không bền vững”, bà Nguyễn Thị Phượng nói.
Lãnh đạo Agribank cũng kiến nghị cơ quan nhà nước các cấp xem xét hoặc tham mưu thẩm định, phê duyệt, đảm bảo tính pháp lý các dự án, phương án vay vốn theo chương trình tín dụng xanh để tạo điều kiện cho Agribank đẩy nhanh tiến độ thẩm định cấp tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét triển khai cụ thể hơn hệ thống các giải pháp toàn diện bảo đảm hệ thống ngân hàng có thể phục vụ hiệu quả cho mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững mà đối tượng thụ hưởng chính là các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực xanh, thân thiện với môi trường.
Agribank và Tập đoàn Vingroup ký kết hợp tác
Tại hội thảo, Agribank và Tập đoàn Vingroup đã ký kết hợp tác nhằm tăng cường hợp tác về đầu tư và phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững. Theo đó, nguồn tín dụng xanh của Agribank sẽ đồng hành cùng chuỗi nông sản, thực phẩm sạch Vinamart của Vingroup, đáp ứng nhu cầu về thực phẩm an toàn của người dân trên cả nước.
Bà Dương Thị Mai Hoa, Tổng giám đốc Tập đoàn Vingroup và bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank ký kết hợp tác.
Phiên thảo luận
Mở đầu phiên thảo luận, ông Nguyễn Việt Hùng - Viện nghiên cứu chăn nuôi quốc tế chia sẻ: “Nông nghiệp an toàn" là chủ đề rất rộng, không chỉ là an toàn thực phẩm mà nhìn rộng ra là nói đến an toàn cho người nông dân, môi trường và các tác nhân tham gia chuỗi.
Nhìn bức tranh an toàn thực phẩm hiện nay thấy rất “nóng” và rất mất an toàn với các nguy cơ “ung thư”…, nhưng nghe cơ quan quản lý bức tranh tích cực hơn, nhiệm vụ các bên rất rõ ràng, cho chúng ta nhiều hi vọng. Khi xem thực tế vẫn có hi vọng dù vẫn còn băn khoăn có làm được hay không.
Với tinh thần như thế, trong hội nghị thảo luận 4 chủ đề khác nhau, tập trung nhìn vào thách thức, bất cập trong chính sách quản lý. Bên cạnh đó là câu chuyện phát triển thương hiệu như thế nào, vấn đề minh bạch thông tin trong truyền thông để người dân không hoang mang, câu chuyên đối tác, liên kết trong chuỗi…
Tránh việc phác họa một bức tranh gây hoang mang
Ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) chia sẻ, người Việt Nam có câu rất hay là "nhất ăn nhì mặc". Về vấn đề ăn uống. Chúng ta đã đàm phán thế giới để thực hiện xuất khẩu nông sản thực phẩm cho họ từ khâu nuôi trồng cho đến bàn ăn.
"Chúng ta bán thực phẩm an toàn cho nước ngoài họ ăn trong khi trong nước lại không làm được. Điều này không phải quá cao xa, chúng ta chắc chắn làm được nếu quyết tâm”, ông Tự nói.
Theo đó, hệ thống chính sách, quy chuẩn chưa đầy đủ khiến nhiều tranh cãi thực phẩm. Chẳng hạn, vẫn nói cà phê bẩn nhưng không biết bẩn thế nào. Việc của nhà quản lý là phải ban hành tiêu chuẩn cà phê rang xay, từ đó kiểm soát chất lượng.
Ông Tự cho biết, việc quản lý an toàn thực phẩm được giao cho Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ Y tế) nhưng lại phân chia nhỏ, quản lý đồng ruộng là Bộ Nông nghiệp, quản lý lưu thông là Bộ Công Thương,… Vì vậy cần phải có sự phối hợp giữa các bộ ngành tốt.
Với các cơ quan báo chí bên cạnh việc chỉ ra thực phẩm bẩn thì phải chỉ ra những nơi bán thực phẩm sạch để người dân mua dùng, tránh việc phác hoạ một bức tranh thực phẩm bẩn, gây hoang mang.
Từ ý kiến được ông Tự nêu ra, ông Hùng tóm lược rằng, người Việt Nam có thể sản xuất được thực phẩm sạch, vấn đề là do sự điều phối chưa tốt giữa các bộ, ngành và truyền thông cần nói về các doanh nghiệp cung cấp thực phẩm an toàn thay vì chỉ đưa tin về các sự việc thực phẩm bẩn, không an toàn.
Cũng theo ông Hùng, có vẻ hiểu biết của các vị đại biểu và mọi người về trách nhiệm Bộ Nông nghiệp, Bộ Y tế, Bộ Công Thương chưa rõ ràng thậm chí hiểu sai lệch, Chính phủ đang có kế hoạch sửa đổi, rà soát lại.
Các diễn giả trình bày trong phiên thảo luận - Ảnh: Việt Tuấn.
Các bộ “hơi khó” ngồi lại với nhau
Ông Nguyễn Hùng Long, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (Bộ Y tế) cho rằng, trên thực tế, Luật đã có 5 năm rồi nhưng thực tế vẫn chưa có cách hiểu chưa đúng. Theo phân công, Chính phủ là đầu mối quản lý về vấn đề vệ sinh an toàn thưc phẩm. Việc quản lý phân công 3 Bộ trực tiếp quản lý, trong đó mỗi bộ quản lý một số nhóm ngành thực phẩm.
Bộ quản lý nhóm nào thì quản lý suốt cả chuỗi từ A-Z chứ không phải Bộ Nông nghiệp quản lý ngoài ruộng, Bộ Công Thương quản lý thị trường, Bộ Y tế quản trên bàn ăn.
Đặc biệt, thực phẩm cũng không như các loại sản phẩm, hàng hoá khác, chỉ do một cơ sở sản xuất ra. Một cơ sở có thể sản xuất ra thực phẩm do cả 3 bộ quản lý. Do đó, 3 Bộ đã thống nhất ban hành thông tư liên tịch phân ra các nhóm ngành hàng...
Ngoài ra, cũng theo ông Long, những điểm chưa thống nhất, còn mới Bộ Y tế sẽ chịu trách nhiệm, quá trình thực tế có những điểm liên quan “hơi khó” các Bộ sẽ ngồi lại với nhau.
“Như vậy, việc phân công tương đối rõ ràng và trong thực hiện cũng cần sự phối hợp, chúng tôi trình đề án đánh giá triển Luật An toàn thực phẩm sau 5 năm, tôi đã đọc thông tin trên báo chí, đưa ra 6 chương trình đánh giá thực hiện pháp luật, luật an toàn thực phẩm sẽ được Quốc hội đánh giá là giám sát tối cao do Quốc hội giám sát”, ông Long cho hay.
Ông Long cũng cho biết, Tp.HCM dưới sự chỉ đạo của ông Đinh La Thăng đang tiến hành bước thành lập cơ quan gồm 3 sở và đang trong quá trình xây dựng đề án và xin ý kiến. Nhiều ý kiến nói phải đưa về một cơ quan tuy nhiên Chính phủ đang chờ đánh giá tiếp theo sau đó mới bàn đến việc nêu trên.
“Cần phải khiến họ sợ để không dám sử dụng chất cấm”
Ông Hoàng Thanh Vân - Cục trưởng Cục chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). cho rằng cần phải truy ra ai là người gây ra mất an toàn sản phẩm và giải quyết với từng đối tượng. Có 3 nhóm chính là: sản xuất, lưu thông và một nhóm khác là thúc đẩy kích thích sử dụng chất cấm, chất độc.
Hiện Cục Chăn nuôi đang triển khai một số hành động như chương trình "Nói không với chất cấm". Sau hơn 2 tháng, đã có 47 tỉnh tham gia, phấn đấu 1 triệu chữ ký không sử dụng chất cấm. Điều này tạo tác động lan toả, ý thức với những người sản xuất.
Đồng thời, Cục cũng đang tiến hành tháo gỡ khó khăn doanh nghiệp. Chỉ có doanh nghiệp mới có thể nói với người dân và Nhà nước về sản phẩm an toàn. Đây là đối tượng quan trọng nhất, bản thân doanh nghiệp khi đã ý thức được sản phẩm an toàn sẽ kiên quyết nói với người dân không được dùng chất cấm, giám sát nông dân.
Vấn đề thứ 3, theo ông Vân, quan trọng nhất là thể chế, người chăn nuôi cũng làm ăn, kiếm tiền, sợ pháp luật nhưng hình như họ nghĩ pháp luật nằm ngoài ngoài sản xuất và họ không sợ pháp luật.
“Cần phải khiến họ sợ, và nghe thông tin để không dám sử dụng chất cấm, cần cứng rắn để ngăn cấm. Nói loạn thuốc nhưng không xử lý cứ để người nông dân làm do đó cần truy tố, người nông dân mới sợ. Cần sửa đổi 1 số điều trong bộ Luật Hình sự, tôi tin chất cấm sẽ giảm mạnh và nhiều người không dám dùng”, ông Vân nhấn mạnh.
Cũng theo ông Vân, Cục Chăn nuôi đang nghiên cứu và sẽ đề xuất với Chính phủ một số nội dung liên quan đến vấn đề nêu trên, kỳ vọng có sự chuyển biến từng bước, từ từ.
Sau ý kiến được ông Vân nêu ra, ông Hùng tóm lược, việc thực thi Luật là quan trọng, đây là những thay đổi trong câu chuyện quản lý chất cấm.
Trao đổi tại hội nghị, ông Hùng cho biết, một vị đại biểu đặt câu hỏi tại sao không cho phép công ty tư nhân thực hiện xây dựng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm như ISO, VietGAP… Chị Phan Ngọc Thảo đến từ công ty Luật cũng đặt câu hỏi: với sứ mệnh đồng hành cùng doanh nghiệp, chúng tôi phải làm nhiều chứng nhận về quy trình chứng nhận tiêu chuẩn, nhưng bản thân doanh nghiệp rất khó thực hiện quy trình này mà tổng chi phí khá cao. Vậy, nhà nước có khuyến nghị doanh nghiệp thực hiện quy trình này hay không?
Trả lời câu hỏi trên, ông Phùng Hữu Hào, Phó cục Trưởng cục Quản lý Chất lượng nông lâm và thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, nói về các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng có VietGAP, ISO… phải ghi nhận trong đó có hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam cam kết kiểm soát theo tiêu chuẩn quốc tế. Còn về bản thân doanh nghiệp muốn áp dụng một hệ thống nào đó phải xuât phát từ việc doanh nghiệp muốn tiêu thụ ở thị trường nào. Ví dụ thị trường EU rất khó tính yêu cầu hệ thống tiêu chuẩn cao như HACCP hay ISO 2000, thì phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đó.
Ông Hào cho biết nguyên tắc của sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng tiêu chuẩn của Việt Nam và đáp ứng xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp chỉ định tiêu thụ trong nước nhưng nếu muốn đăng ký tham gia vào chuỗi sản phẩm an toàn thì phải đáp ứng quy trình của Bộ Nông nghiệp.
Chẳng hạn, các cơ sở sản xuất đáp ứng yêu cầu đủ điều kiện chứng nhận an toàn thực phẩm. Điều này đơn giản hơn nhiều những tiêu chí như VietGAP. Các cơ sở sản xuất cần phải định hướng sản phẩm hướng vào đối tượng nào. Chuỗi thực phẩm an toàn nào, ở địa phương nào cho đến điểm bày bán đều có lực lượng quản lý tại địa phương đó giám sát. Đây là ban đầu, về lâu dài phải giám sát, xã hội hoá. Nhà nước không thể làm tất cả mà đòi hỏi sự vào cuộc của các tổ chức khác để giám sát thực phẩm an toàn.
Hàng trăm đại biểu, khách mời tham dự hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Ngoài hệ thống chứng nhận an toàn của Nhà nước, có một số chuỗi của tư nhân mở ra. Họ có đưa ra một số những yêu cầu tiêu chuẩn riêng. Vấn đề là người dân có muốn đưa sản phẩm của họ vào các chuỗi thực phẩm an toàn đó không.
Ông Hào thông tin thêm, thực tế hiện nay chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các cơ quan có liên quan như Cục Trồng trọt, Cục Chăn nuôi đang tiến hành đơn giản hoá tiêu chuẩn VietGAP xuống còn gần 20 tiêu chí.
Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Tâm, đại diện doanh nghiệp chăn nuôi Giang Sơn, nằm ở địa bàn tương đối khó khăn, xa trung tâm và thiếu hụt vốn đặt vấn đề trực tiếp tới bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Agribank rằng, sản phẩm của đơn vị đã được thị trường ghi nhận nhưng nguồn vốn có hạn, doanh nghiệp cần nguồn vốn hỗ trợ vay tín chấp.
Bà Phượng cho biết, bà đề nghị có trao đổi riêng với đại diện Công ty Cổ phần Giang Sơn liên quan đến vấn đề giải quyết vốn cho doanh nghiệp.
Bà Phượng cũng thông tin rằng, để có thể cấp vốn cho dự án chăn nuôi phía Ngân hàng bắt buộc có đánh giá, cân nhắc về tính khả thi dự án.
Thứ hai, về hiệu quả phương án, ngân hàng quan tâm việc công ty tổ chức sản xuất, kiểm soát yếu tố đầu vào, quản lý chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, là các hợp đồng tiêu thụ tức là tính ổn định đầu ra.
Thứ ba, quản lý khép kín chuỗi cung ứng bán hàng, dòng tiền được thanh toán như nào. Ngân hàng có ưu đãi, cho vay với tỷ lệ 90% vốn dự án mà yếu tố tài sản đảm bảo không phải là yếu tố hàng đầu.
“Chúng tôi đang cố gắng gia tăng khách hàng, thay vì đầu tư vốn cho từng hộ gia đình nhỏ lẻ chúng tôi khuyến khích đầu tư, cho vay với những dự án lớn, mô hình hợp tác xã”, bà Phượng kết luận và hẹn gặp đại diện Công ty Cổ phần Giang Sơn sau buổi hội thảo.
Tại hội thảo, anh Hùng hỏi bà Phượng trong thời gian tới có thể hợp tác đầu tư mạnh vào nông nghiệp. Bà Phượng cam kết, tới đây sẽ có hợp tác toàn diện triển khai về nông nghiệp với Hợp tác xã. Hiện ngân hàng Agribank đã có hợp tác với Hội nông dân và nhiều tổ chức sản xuất nông nghiệp khác. Theo đó với xu hướng sản xuất nông nghiệp với ngân hàng sẽ nghiên cứu, triển khai dự án phù hợp.
Phổ biến quy định pháp luật về thực phẩm tới người dân
Ông Ngô Văn Hiệp - Trưởng Phòng Luật sư tại Hà Nội nêu ý kiến: "Tôi đã nghiên cứu và thấy cơ bản văn bản, quy định hiện nay khá hoàn chỉnh nhưng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm ngoài việc doanh nghiệp và các cá nhân bất chấp đạo đức mà còn do công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước còn kém".
Theo ông Hiệp, hầu hết các vụ việc vi phạm hiện nay đều do báo chí hoặc người dân thông báo, cơ quan quản lý rất thụ động. Bên cạnh đó, chế tài không có hoặc quá nhẹ cũng là nguyên nhân khiến người ta không tuân thủ. Về nội dung này, cơ quan nhà nước cần xem lại. Ngoài ra, cũng cần có quy định khuyến khích tố cáo và có phần thưởng khi mà các vụ việc do báo chí và quan Nhà nước phát hiện.
Các diễn giả trình bày trong phiên thảo luận - Ảnh: Việt Tuấn.
Ông Hùng nêu vấn đề, có câu hỏi là hiện nay nhiều doanh nghiệp lớn như Vingroup, HAGL bắt đầu tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và nhưng câu chuyện là với hơn 10 triệu cá nhân nhỏ lẻ tham gia cần có giải pháp như thế nào để giúp họ sản xuất ra được những sản phẩm an toàn.
Ông Hào cho biết, viêc hướng dẫn hộ nông dân thực hành sản xuất nông nghiệp tốt đã được Cục Thực vật thực hiện trong nhiều năm qua. Cục Thực vật đã thường xuyên tổ chức hội thảo, hội nghị, thực hành quy trình thực phẩm tốt.
Việc phổ biến văn bản pháp lý, quy định đã được các cơ quan nhà nước và địa phương ban hành và phổ biến tới người dân. Các nông dân có sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tốt dựa trên tạo ra những sản phẩm an toàn, đáp ứng ứng nhu cầu của xã hội.
“Hội nhập rồi nhưng sức cạnh tranh vẫn yếu”
Phát biểu bế mạc hội thảo, ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương đánh giá cao những thông tin được nêu ra tại hội nghị từ phía các Bộ, ngành, các cơ quan chức năng có liên quan và các doanh nghiệp.
“Tôi cho rằng đây là những vấn đề không chỉ những người trong hội trường mà toàn xã hội đặc biệt người dân sẽ rất quan tâm. Kết quả là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước chỉ đạo, điều hành rà soát bổ sung vào chương trình mục tiêu hàng năm, có thể duy trì hội thảo và nâng cấp thành diễn đàn, trước trong và sau diễn đàn tiếp thu các ý kiến của người tiêu dùng, người sản xuất.
Diễn đàn Nông nghiệp an toàn nên làm 1 năm 1-2 lần có thể ở khu vực hoặc toàn quốc. Bổ sung không chỉ Nông nghiệp An toàn mà phải Hiệu quả. Vì thực tế hiện nay sản xuất ở Việt Nam rơi vào tình trạng được mùa mất giá chẳng hạn như mặt hàng gạo, hoa quả… do đó bốn nhà cần tập trung và gắn kết với nhau hơn”, ông Đương chia sẻ.
Theo ông Đương, các diễn đàn về nông nghiệp an toàn còn nên đề cập tới vấn đề thực phẩm sạch, tới thực tế hiện nay nhiều người sống tại nhà cao tầng vẫn trồng đủ các loại rau thơm, rau thì là… Theo đó, tại các diễn đàn còn là cơ hội để giới thiệu kinh nghiệm chuẩn bị như thế nào, chăm sóc như thế nào để người dân trồng rau sạch tại nhà.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là 3 Bộ: Công Thương, Nông nghiệp, Y tế. Căn cứ Hội thảo là cơ sở để bổ sung, giải pháp, tuyên truyền đã có hội nhà báo, khoa học kĩ thuật phải có Bộ Khoa học và Công nghệ.
“Các đồng chí nói trên chợ thì Bộ Công Thương quản lý, bàn ăn là Bộ Y tế, đồng ruộng là Bộ Nông nghiệp nhưng Bộ nào cũng quan trọng. Tôi cho rằng còn cần bổ sung thêm 1 số cơ quan nữa”, ông Đương nói.
Ông Đương cũng nhấn mạnh” Việt Nam là đất nước nông nghiệp và trên đường công nghiệp hoá, làm sao để biến nông nghiệp thành sản phẩm công nghiệp. Chúng ta hội nhập rồi nhưng sức cạnh tranh vẫn yếu và phải phát triển công nghiệp vì không có nông nghiệp thì năng suất, hiệu quả không cao”.
“Hàng hoá nông nghiệp phải có giá trị gia tăng, các sản phẩm từ nông nghiệp, công nghiệp cần tính hiệu quả đảm bảo năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm”, ông Đương kết luận.
Thực tế này, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, niềm tin của người tiêu dùng mà còn dẫn đến nguy cơ mất cân bằng trong cơ cấu phát triển nông nghiệp, kém hiệu quả cả về giá trị kinh tế và ý nghĩa nhân văn.
Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo các Bộ, ban ngành chức năng và liên quan triển khai hàng loạt các hoạt động quản lý, can thiệp trực tiếp và truyền thông rộng rãi, minh bạch vấn đề này.
Nhằm tiếp tục nỗ lực cùng các cơ quan chức năng đánh giá hiện trạng, triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng nông sản Việt, Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức hội thảo nông nghiệp an toàn: “Giải pháp thúc đẩy trách nhiệm thực thi trong quản lý chuỗi giá trị nông nghiệp” vào lúc 8.00-11.30, ngày 15/7/2016 tại Khách sạn Fortuna Hà Nội.
Đoàn chủ tọa hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
“Thực phẩm không an toàn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trầm trọng”
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương đã nhiệt liệt chào mừng các quý vị đại biểu tham dự Hội thảo “Giải pháp thúc đẩy trách nhiệm thực thi trong quản lý chuỗi giá trị nông nghiệp” được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội.
Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học trong nước và quốc tế mà còn có sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong cả nước.
Hội thảo tổ chức vào thời điểm này có ý nghĩa rất thiết thực, cung cấp thông tin, luận cứ khoa học và thực tiễn giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạch định chính sách và tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng.
Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế về phát triển nông nghiệp. Trong những năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, Nhà nước, nông nghiệp Việt Nam đã liên tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển đất nước, nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Những thành quả đó là nhờ sự đổi mới về thể chế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới tư duy quản lý trong nông nghiệp.
Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực, đến nay không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho hơn 90 triệu dân, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng và nhiều mặt hàng xuất khẩu đứng trong tốp đầu của thế giới.
Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội và những thách thức trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt; tăng trưởng và giá trị gia tăng trong ngành nông nghiệp trong những năm gần đây có xu hướng giảm và vấn đề mất vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Thực phẩm không an toàn sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực, sinh kế, đời sống và sức khỏe của người dân, thậm chí còn ảnh hưởng đến chất lượng giống nòi Việt Nam, hơn nữa là niềm tin của người tiêu dùng trước những giá trị về kinh tế, văn hóa và đạo đức của các sản phẩm do con người tạo ra và tác động đến quyết định đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm có khoảng 10% dân số thế giới bị ngộ độc do ăn thức ăn nhiễm độc, trong số đó có hàng trăm nghìn người bị chết vì nguyên nhân thực phẩm không an toàn.
Ở Việt Nam, tỷ lệ thực phẩm chưa an toàn còn rất cao. Số lượng các vụ ngộ độc thực phẩm cũng như số người bị nhiễm độc thực phẩm do các tác nhân nấm mốc, vi sinh vật, thuốc tăng trọng, thuốc kích thích sinh trưởng, kháng sinh, thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản, thuốc chống ẩm mốc… còn xuất hiện, tồn dư trong thực phẩm sử dụng hàng ngày của người tiêu dùng còn khá cao, đặc biệt là các trường hợp mắc bệnh nhiễm trùng bởi thực phẩm. Con số thống kê ngộ độc thực phẩm cho thấy số vụ và số người bị ngộ độc không giảm trong những năm gần đây mà còn có dấu hiệu gia tăng.
Các diễn giả, đại biểu tham dự hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng trên là do phương thức sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn lạc hậu, nhỏ lẻ; quản lý chất lượng sản phẩm còn lỏng lẻo ở nhiều khâu trong chuỗi từ sản xuất, chế biến, vận chuyển, bao gói, tiêu thụ thực phẩm; nhận thức và ý thức, trách nhiệm về an toàn của các tổ chức, cá nhân tham gia chuỗi sản xuất, quản lý còn nhiều hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát, chế tài xử phạt và xử chưa đủ sức răn đe.
Thực tế này đã đặt ra yêu cầu cần có những rà soát, đánh giá tổng thể, nhận diện các vấn đề cốt lõi, tiềm ẩn và hiện hữu; các nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng trên, từ đó, có những giải pháp phù hợp và hiệu quả nhằm đạt được sự cải thiện trên thực tế trong ngắn hạn và lâu dài.
Để nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giống nòi, tăng tuổi thọ và sức khỏe của người Việt Nam, vấn đề đảm bảo dinh dưỡng và an toàn thực phẩm đã được đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược dài hạn trong Chiến lược phát triển bền vững ở nước ta.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo ngành các cấp các ngành, địa phương huy động nguồn lực con người và lợi thế tự nhiên để phát triển nông nghiệp xanh, sạch, bền vững, an toàn góp phần quan trọng vào xoá đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân nông thôn, cải thiện sức khỏe, dinh dưỡng và cuộc sống cho nhân dân.
Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư về Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới đã nêu rõ: “Chú trọng việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, tổ chức thực hiện đồng bộ hiệu quả các chính sách và pháp luật về an toàn thực phẩm. Sớm ban hành chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm đến năm 2020 và đẩy nhanh việc hướng dẫn thực hiện Luật An toàn thực phẩm và các quy chuẩn về an toàn thực phẩm; nghiên cứu phát hiện, điều chỉnh, bổ sung kịp thời các quy định liên quan cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế; phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương”.
Ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương - Ảnh: Việt Tuấn.
Và mới đây, ngày 9/5/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị thị số 13/CT-TTg về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm toàn thực phẩm, yêu cầu: Đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhất là của chính quyền địa phương về an toàn thực phẩm trên địa bàn; coi đây là nhiệm vụ cần tập trung, ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực cho công tác này.
"Tại Hội thảo này, tôi hy vọng và tin tưởng rằng, những ý tưởng, những sáng kiến quý báu của quý vị sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sản xuất thực phẩm sạch, an toàn, để nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản Việt Nam. Ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững", ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương, nhấn mạnh.
GS. Đào Nguyên Cát - Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam (phải) và ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) - Ảnh: Việt Tuấn.
Thực phẩm bẩn đang đe dọa sức khoẻ, cuộc sống hàng ngày
Phát biểu tại hội thảo, ông Hồ Quang Lợi, Phó chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam, cho biết hội thảo này có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong bối cảnh hiện nay. Bây giờ chỉ cần khoá từ khoá "thực phẩm bẩn” ngay lập tức nhận được 4 triệu kết quả trong vòng 0,24' trên Google. Điều này cho thấy sự quan tâm của toàn xã hội. Cơ quan thông tấn báo chí vừa qua đã thực hiện nhiều sản phẩm báo chí về thực phẩm bẩn, VTV có chương trình "Nói không với thực phẩm bẩn". Thực phẩm bẩn đang đe dọa sức khoẻ, cuộc sống hàng ngày.
Tầm vóc của người Việt trong top 4 cuối của thế giới. Với thực trạng thực phẩm bẩn, chất lượng giống nòi của Việt Nam đang bị đe doạ. Báo chí, truyền thông đã góp phần lớn giúp cơ quan chức năng thanh lọc, loại bỏ các thực phẩm bẩn khỏi cuộc sống nhưng vẫn ít ỏi so với vấn nạn thực phẩm bẩn tràn lan hiện nay.
Ông Hồ Quang Lợi nhấn mạnh vấn nạn thực phẩm bẩn đã gây hoang mang cho toàn xã hội. Cuộc chiến này dù có sự tham gia nhiều bên nhưng vẫn chưa thể đẩy lùi vấn nạn này. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng nông nghiệp an toàn, loại bỏ thực phẩm ra khỏi xã hội. Vì vậy, phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm sạch. Cơ quan báo chí truyền thông cần có thông điệp tích cực tránh gây hoang mang.
Ông Hồ Quang Lợi, Phó chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam - Ảnh: Việt Tuấn.
“Tôi đánh giá cao sáng kiến, nỗ lực của Thời báo Kinh tế Việt Nam đã tổ chức hội thảo này, tôi tin tưởng với sự tham gia của hàng trăm cơ quan báo chí có mặt tại hội thảo, thông điệp chống thực phẩm bẩn, tạo nền nông nghiệp an toàn bền vững sẽ được báo chí truyền thông hiệu quả hơn. Đây là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng hình ảnh uy tín quốc gia, góp phần phát triển giống nòi Việt Nam”, ông Hồ Quang Lợi kết luận.
Đông đảo các cơ quan thông tấn báo chí đã tới tham dự hội thảo.
Minh bạch, công khai luật
Mở đầu phiên 1, về hiện trạng vấn đề an toàn các mặt hàng nông sản, thực phẩm của Việt Nam và các chương trình hành động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển đã triển khai thời gian qua, ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục quản lý chất lượng Nông lâm và Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết, về khung pháp luật và chính sách, các thành tố quan trọng trong quản lý an toàn thực phẩm, quản lý dựa trên nguy cơ, kiểm soát nguy cơ an toàn thực phẩm từ trang trạng tới bàn ăn.
Quy định, quy chuẩn, quy trình kiểm soát An toàn thực phẩm dựa trên cơ sở khoa học, hài hoà với chuẩn mực thông lệ quốc tế.
Quy định rõ trách nhiệm của các bên, trách nhiệm đảm bảo an toàn thực phẩm trước tiên thuộc về cơ sở sản xuất kinh doanh.
Minh bạch, công khai luật, quy định, kết quả thanh tra, kiểm tra; Truy xuất, điều tra và xử lý nghiêm sự cố mất an toàn thực phẩm. Khuyến khích liên kết giữa sản xuất và phân phối; hỗ trợ cơ sở áp dụng GAP/HACCP và các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác. Tăng cường truyền thông giáo dục ý thức trách nhiệm về an toàn thực phẩm cho cơ sở sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan thực thi kiểm soát.
Khuyến khích đàm phán ký kết công nhận lẫn nhau hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm. Tăng cường năng lực, nguồn lực cho cơ quan quản lý an toàn thực phẩm.
Liên quan đến khung pháp lý, theo ông Hào, Luật An toàn thực phẩm và 4 luật có liên quan là Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Thanh tra (sửa đổi) và Luật về xử phạt vi phạm hành chính; Các nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thực hiện các luật tương ứng nêu trên (38/2012/NĐ-CP; 132/2008/NĐ-CP; 127/2007/NĐ-CP; 07/2012/NĐ-CP; 83/2013/NĐ-CP; 178/2013/NĐ-CP).
Ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục quản lý chất lượng Nông lâm và Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Ảnh: Việt Tuấn.
Các thông tư liên tịch: 13/2014/TTLT-BYT-BNN-BCT về phối hợp giữa 3 Bộ; 20/2013/TTLT-BYT-BNN-BCT về chỉ định phòng kiểm nghiệm thực phẩm và 34/2014/TTLT-BYT-BNN-BCT về ghi nhãn sản phẩm; Các thông tư/quy định của các Bộ Y tế về chỉ tiêu và giới hạn an toàn thực phẩm (hóa học, sinh học); Các Thông tư/quy định của Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn về trình tự thủ tục kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện An toàn thực phẩm, quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm (45/2014/TT-BNNPTNT, 08/2016/TT-BNNPTNT …).
Khung pháp lý và chính sách bao gồm: các nghị định/nghị quyết của Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ khuyến khích áp dụng GAP. Các đề án của Chính phủ về đẩy mạnh hoạt động truyền thông an toàn thực phẩm, nâng cao năng lực thanh tra chuyên ngành, xây dựng và phát triển chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn…
Như vậy, về cơ bản đã có đầy đủ căn cứ pháp lý và chính sách triển khai, nội dung quản lý và kiểm soát dựa trên nguy cơ, hài hoà với thoả thuận WTO/SPS, hệ thống tập trung.
Về phân công và phân cấp quản lý an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành quyết định số 1290/QĐ-BNN-TCCB về phân công, phân cấp nhằm làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, giữa trung ương và địa phương. Theo đó, các nguồn lực được huy động, phân công và cơ chế điều phối, phối hợp rõ ràng, phân cấp mạnh cho địa phương.
Về công tác tuyên truyền, phổ biến an toàn thực phẩm: Việc triển khai theo nhiều hình thức (Tờ rơi, Panô, áp phíc, trên VTV, VOV, Báo, Đài địa phương, hệ thống phát thanh xã phường).
Trong 6 tháng đầu năm 2016 các tỉnh/thành phố đã in, phát 718 247 tờ rơi, tờ dán; 4.808 băng rôn, khẩu hiệu, pano; 3.386 tin, bài báo; 14.802 clip, phóng sự, bản tin phát trên đài truyền hình, đài phát thanh tỉnh, huyện, xã; tổ chức 5.269 hội nghị/hội thảo, lớp tập huấn tuyên truyền về đảm bảo an toàn thực phẩm cho 405 521 lượt người dân, cơ sở sản xuất, kinh doanh tham dự; 89 652 tờ rơi, tờ dán, 1.446 băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền, hướng dẫn nhận biết và sử dụng sản phẩm nông thủy sản an toàn.
Hướng dẫn áp dụng thực hành sản xuất tốt: Tổ chức các lớp tập huấn, đặc biệt là tập huấn đầu bờ, hướng dẫn thực địa… cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản.
Về kiểm tra, phân loại và chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm, thống kê đến T6/2016 cho thấy tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu (Loại A/B) về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đã tăng lên 79,76% (lũy kế năm 2015 là 78,3%). Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xếp loại C được tái kiểm tra và nâng hạng A, B là 35,84% (lũy kế năm 2015 là 34,43%).
Giám sát an toàn thực phẩm sản phẩm nông lâm thủy sản: Tập trung giám sát sản phẩm rủi ro cao, nhiều bức xúc như thịt, rau, thuỷ sản nuôi. Kết quả giám sát cho thấy tỷ lệ mẫu vi phạm có giảm, có chuyển biến nhưng kết quả không đạt vẫn còn cao.
Kết quả 6 tháng đầu năm 2016 cho thấy: Rau có 4,2% vi phạm trong đó thuốc bảo vệ thực vật chiếm 3,98% giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (5,17%), thịt có 10,93%, trong đó vi sinh 9,7% giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (15,4%), hóa chất, kháng sinh, chất cấm, kim loại nặng (chiếm 1,3%, giảm so với đợt cao điểm hành động về vệ sinh an toàn thực phẩm (1,91%), thủy sản nuôi (1,61%) trong đó chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh, chất cấm (chiếm 1,41%, tăng so với cuối năm 2015 (1,14%).
PGS.TS Vũ Đình Hòe - Phó tổng biên tập Thường trực Thời báo Kinh tế Việt Nam (trái) điều hành hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Thanh tra chuyên ngành chưa gắn với cảnh báo các mối nguy
Thời gian qua, các bộ ngành đã đẩy mạnh quản lý an toàn thực phẩm, tăng cường kiểm tra, thanh tra nông sản. Các trường hợp vi phạm đã bị xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, các quy chuẩn kỹ thuật chưa được rà soát kịp thời, đầy đủ. Việc phân công cho các địa phương chưa rõ ràng cụ thể. Kết quả thanh tra, giám sát an toàn thực phẩm còn phát hiện nhiều vi phạm, chưa đáp ứng yêu cầu của người dân. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ tràn lan, rất khó quản lý. Việc thanh tra chuyên ngành chưa gắn với cảnh báo các mối nguy, công đoạn trọng yếu mất an toàn thực phẩm. Chậm truy xuất, điều tra xử lý về các vi phạm.
Nhiều năm qua ngành Nông nghiệp coi an toàn thực phẩm là nhiệm vụ trọng tâm. 2016 là năm cao điểm về an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp sẽ tiếp tục rà soát các quy định, ban hành bổ sung các tiêu chuẩn kỹ thuật để siết chặt quản lý chất lượng nông sản. Công tác thanh tra sẽ được tăng cường. Công tác nâng cao chất lượng nhân lực được chú trọng. Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ, máy móc vào chế biến nông sản an toàn. Thực hiện các chuỗi sản xuất liên kết tạo ra các nông sản an toàn.
Ảnh: Việt Tuấn.
Bên cạnh đó, tổ chức triển khai các nội dung Chỉ thị 13/2016/CT-TTg, lưu ý trách nhiệm cơ quan quản lý đặc biệt cơ quan quản lý địa phương. Ban hành quy định, hướng dẫn xác nhận sản phẩm chuỗi và tổ chức triển khai nhằm củng cố niền tin của người tiêu dùng trong nước và tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Giải quyết kịp thời các vướng mắc của thị trường nhập khẩu và triển khai các giải pháp kỹ thuật với giải pháp kinh tế, thương mại, xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu và xúc tiến thương mại, quảng bá, có chính sách huy động các nguồn lực xã hội; sự tham gia của cộng đồng; khuyến khích tạo động lực cho sản xuất kinh doanh thực phẩm an toàn.
Xây dựng cách thức truy xuất nguồn gốc thực phẩm
Trình bày tham luận của mình, bà Võ Ngân Giang, đại diện FAO, cho biết thị trường của hầu hết các loại thực phẩm trên thế giới đặc trưng bởi nguồn cung dồi dào và ít bất ổn hơn trong những năm gần đây, phản ánh qua chỉ số giá lương thực thực phẩm FAO thấp trong 4 năm nay. Trừ trường hợp ngoại lệ là thị trường sản phẩm động vật - duy trì mức nhập khẩu ở con số 1 nghìn tỷ USD cho 5 thứ năm liên tiếp.
Dù hầu hết các thực phẩm được tiêu thụ trên thế giới có nguồn gốc địa phương, thương mại toàn cầu được cho là có đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực. Quy mô thương mại nông nghiệp và thực phẩm ngày nay đạt mức chưa từng có. Trên thực tế, thương mại quốc tế đã tăng gấp 5 lần so với 50 năm trước, phân bố không đều giữa các khu vực.
Các quốc gia đang phát triển được cho là có lợi thế so sánh hơn trong thương mại toàn cầu nhờ đảm bảo yêu cầu về chất lượng thực phẩm và các tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ, truy xuất nguồn gốc và thương hiệu sản phẩm.
Theo bà Giang, cán cân thương mại nông nghiệp giảm dần là một kết quả tiêu cực trong phát triển ở quốc gia mà nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào doanh thu xuất khẩu nông nghiệp, phải chuyển hướng các nguồn lực ngoại hối khan hiếm để chi trả cho việc tăng thực phẩm nhập khẩu (cuối cùng tạo nên các nguồn nợ nước ngoài không bền vững).
Quan điểm phúc lợi cho thấy, việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm như vậy không giúp làm tăng chỉ số tiêu thụ thực phẩm bình quân trên đầu người và cải thiện an ninh lương thực nhưng cần thiết để duy trì các mức tiêu thụ thực phẩm tối thiểu.
“Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng sản xuất ở hầu hết các khu vực đang phát triển thấp hơn so với nhu cầu, vì việc nhập khẩu nông sản tăng nhanh hơn xuất khẩu. Điều này làm mòn dần thặng dư thương mại truyền thống về nông nghiệp, khiến cán cân trở nên thâm hụt ròng”, bà Giang nói.
Về nhân tố tác động đến nhu cầu thực phẩm toàn cầu, theo bà Giang, thứ nhất là sự phát triển bùng nổ dân số. Dẫn nhận xét của Tổng giám đốc FAO đã nói 50 năm tới người nông dân và người sản xuất trên thế giới sẽ sản xuất ra một lượng lương thực thực phẩm nhiều hơn tổng số lương thực thực phẩm đã từng được sản xuất ra trong 10.000 năm qua bằng một cách thức bền vững với môi trường, bà Giang cũng cho biết, ở cấp độ an toàn đến năm 2050, sẽ cần một lượng thực phẩm khổng lồ mỗi năm như thêm 1 tỷ tấn ngũ cốc đến năm 2050, 1 tỷ tấn thịt bò mỗi năm, 460 triệu tấn thịt mỗi năm…
Không chỉ tăng nhu cầu thực phẩm, mà còn tăng chủng loại thực phẩm được sử dụng. Số liệu cho thấy, nhu cầu thực phẩm gia tăng của tầng lớp trung lưu rơi vào nhóm các loại thực phẩm giá trị cao như thịt, trứng, sữa và thị phần các loại này đang gia tăng. Điều này thể hiện rõ nét ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tập trung ở các thành phố lớn, Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này.
Liên quan đến vấn đề truy xuất nguồn gốc, bà Giang cho biết, khái niệm này chỉ khả năng theo dõi thức ăn hoặc thực phẩm qua các công đoạn sản xuất, chế biến và phân phối cụ thể.
Nguyên tắc sản xuất, một bước tiến, một bước lùi truy xuất nguồn gốc là khả năng xác định được nguồn gốc khi có sự cố phát sinh để ngăn chặn sự lây lan hoặc thu hồi sản phẩm.
Tại hội thảo, bà Giang cũng giới thiệu về truy xuất nguồn gốc và kinh nghiệm quốc tế. Theo đó, truy xuất nguồn gốc là khả năng theo dõi thức ăn hoặc thực phẩm qua các công đoạn sản xuất, chế biến và phân phối cụ thể. Trong những năm qua các loại bệnh có nguồn gốc động vật có thể lây lan cho con người, các vi phạm sinh vật gây bệnh như H5N1… Vì vậy cần truy xuất để loại bỏ các mầm mống bệnh tật này.
Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến nguồn gốc, kênh phân phối nào, có đạt yêu cầu an toàn thực phẩm, có chứng chỉ an toàn không. Nhà sản xuất cũng phải tự hỏi người tiêu dùng có tin chất lượng sản phẩm của mình không. Khi có sự việc xảy ra cần phải nhanh chóng xác định mắt xích bị lỗi: sản xuất hay phân phối, bảo quản.
Với các cơ quan quản lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Hệ thống truy xuất hiệu quả phải có hệ thống thông tin cho phép các doanh nghiệp nông nghiệp quản lý nguy cơ tốt hơn. Hệ thống này cũng giúp phản ứng nhanh với tình huống khẩn cấp hoặc thu hồi sản phẩm. Đồng thời, giảm đáng kể thời gian đáp ứng bằng cách nhanh chóng xác định nguồn gốc và vị trí sản phẩm.
Đặc thù của hệ thống truy xuất là xác định đến từng lô của nguyên liệu. Các tác nhân trong chuỗi cần phải đăng ký, lưu giữ và chia sẻ có chọn lọc theo cấp độ có thông tin về địa chỉ, nguồn gốc, điều kiện sản xuất, thời gian.
Bà Giang nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý hiệu quả các truy xuất nguồn gốc. Các yếu tố đảm bảo truy xuất: sơ đồ và cách thức tổ chức chuỗi cung ứng, số lượng và mức độ hợp tác các tác nhân, khả năng tác nhân, nguồn nguyên liệu đầu vào, năng lực quản lý, xác nhận và kiểm chứng.
Bà Võ Ngân Giang, đại diện FAO - Ảnh: Việt Tuấn.
Quản lý thực phẩm nhìn từ các nước phát triển
Kinh nghiệm quốc tế: tại Mỹ, Chính phủ nước này nhấn mạnh sự cần thiết phải truy xuất theo chuỗi cung ứng. Người nhập khẩu được yêu cầu lập và duy trì hồ sơ xác định nguồn gốc thực phẩm. Người chế biến được yêu cầu lập hồ sơ tại thời điểm chế biến.
Các hồ sơ phải bảo lưu ít nhất trong 2 năm và nếu được yêu cầu phải trình trong 4 giời nếu Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu.
Đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 đòi hỏi các cơ sở trong và ngoài nước sản xuất, chế biến, đóng gói hoặc nhập khẩu thực phẩm phải đăng ký với FDA.
Quy định để cho rau quả tươi và các thực phẩm khác nêu chi tiết trong luật hiện đại hoá an toàn thực phẩm của FDA (FSMA) năm 2011.
Hệ thống an toàn thực phẩm tăng cường tập trung vào việc ngăn ngừa các vấn đề an toàn thực phẩm hơn là phản ứng với các vấn đề sau khi chúng xảy ra.
Một điều quan trọng của phương pháp phòng ngừa là FDA được giao nhiệm vụ thiết lập cơ sở khoa học, các tiêu chuẩn tối thiểu về sản xuất, thu hoạch, đóng gói và lưu giữ sản phẩm tại trang trại nhằm giảm thiểu các nguy cơ lây nhiễm có thể gây ra cho các bất lợi sức khoẻ và gây tử vong.
FDA cũng chịu trách nhiệm phòng, kiểm tra sự tuân thủ và xử lý các trường hợp nguy cơ; FDA thành lập hệ thống truy xuất cho thực phẩm nội địa và nhập khẩu.
Tại Canada, Cơ quan Thanh tra thành phố Canada (CFIA) chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm. CFIA đang xem xét áp dụng rộng rãi hơn các yêu cầu truy xuất nguồn gốc đối với các doanh nghiệp thực phẩm theo Đạo luật an toàn thực phẩm (SFCA) của Canada năm 2012.
Ảnh: Việt Tuấn.
Chính phủ xem xét hợp nhất 4 bộ luật liên quan vào một luật chung, nhằm bảo vệ tốt hơn người Canada khỏi các nguy cơ an toàn thực phẩm.
Pháp luật cho phép tạo ra một hệ thống mạnh mẽ hơn để theo dõi các sản phẩm theo toàn bộ chuỗi sản xuất, bằng hệ thống truy xuất nguồn gốc bao gồm: tên và mã thực phẩm; tên và địa điểm kinh doanh của người sản xuất, chế biến, lưu trữ, đóng gói, dán nhãn các thực phẩm….
Hồ sơ tại Canada cũng yêu cầu phải truy cập và được duy trì trong vòng 2 năm.
Dẫn chứng trường hợp Nhật Bản, bà Giang cho biết, quy định của Nhật Bản yêu cầu hệ thống truy xuất nguồn gốc đối với thịt bò trong nước.
Đối với thực phẩm khác Luật vệ sinh thực phẩm yêu cầu người chế biến, kinh doanh lưu giữ hồ sơ để xác định tất cả các nhà cung cấp và áp dụng nguyên tắc một bước tiến, một bước lùi. Điều này tương tự như Điều 18 theo Quy định EC/EU 178/2002, tuy nhiên yêu cầu này không là bắt buộc.
Bên cạnh đó, Nhật Bản bắt buộc ghi nhãn của nơi xuất xứ đối với thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến tối thiểu cho cả bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên, theo bà Giang, dù yêu cầu dán nhãn xuất xứ, hệ thống lưu giữ hồ sơ xác minh nguồn gốc cung cấp như phiếu giao hàng, hoá đơn lại không bắt buộc.
Trong khi đó, theo bà Giang, nghiên cứu truy xuất của FAO tại Việt Nam cho thấy, chúng ta có nhiều đầu mối thông tin nhưng chưa có thông tin cơ bản, chưa có hệ thống dữ liệu để kết nối toàn bộ hệ thống.
“Truy xuất gia cầm tại Việt Nam, chưa xác định được vì chưa có mã, định danh cho từng đơn vị sản xuất đặc biệt đơn vị nhỏ lẻ. Quản lý nội bộ tuỳ nợi cũng bị gián đoạn, không xác định để truy ngược lại đơn vị cung cấp”, đại diện FAO nói.
Cuối cùng, bà Giang lưu ý các cơ quan quản lý cần chú trọng đăng ký sản xuất, phân phối sản phẩm. Ưu tiên phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, tăng cường quản lý truy xuất, quản lý chất lượng theo chuỗi.
Bà Giang cho rằng cần phải phát triển hệ thống chuỗi nhưng mấu chốt phải tạo ra một môi trường minh bạch, tạo sự tin tưởng cho người dân. Đây là việc rất lớn cần sự tham gia của nhiều bộ ngành.
“Ưu tiên về sản phẩm nông sản an toàn của Việt Nam”
Bà Lê Việt Nga - Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) chia sẻ một góc nhìn về việc ưu tiên về sản phẩm nông sản an toàn của Việt Nam. Có 5 yếu tố ảnh hưởng tới chuỗi nông sản an toàn. Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách, pháp luật bảo đảm an toàn thực phẩm.
Thứ hai, cần có sự quyết tâm, đầu tư đúng hướng, chuỗi cung ứng nông sản gắn liền với hệ thống quản lý chất lượng.
Thứ ba, cần có sự ủng hộ, đón nhận tin tưởng của người tiêu dùng.
Thứ tư, vai trò thông tin truyền thông về cung ứng chuỗi an toàn thực phẩm. Các tổ chức chính trị cùng vận động.
Về chính sách và pháp luật đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất kinh doanh nông sản an toàn. Hiện Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật An toàn thực phẩm năm 2010, phân công trách nhiệm cho từng bộ ngành, theo từng nhóm sản phẩm.
Bà Nga cho rằng bảo đảm an toàn thực phẩm là trách nhiệm của toàn xã hội. Quản lý an toàn là bảo đảm các quy chuẩn kỹ thuật, quản lý trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích mối nguy hoại. Đồng thời đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành.
Trong đó, Bộ Nông nghiệp quản lý trong quá trình sản suất, thu gom, xuất nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các ản phẩm từ thịt, thuỷ sản, rau, củ quả,...
Về phía Bộ Công Thương được giao trách nhiệm quy hoạch, phân phối các sản phẩm ở chợ, siêu thị. Chẳng hạn, lực lượng Quản lý thị trường đã thường xuyên quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng giả hàng nhái ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của nông sản an toàn.
Bà Nga nhấn mạnh, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ áp dụng các biện pháp tiên tiến kinh doanh nông sản: vốn, kỹ thuật cho chăn nuôi, công tác sơ chế, chế biến, bảo quản, lưu thông… Đồng thời cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ tiếp cận đất đai, hạ tầng thương mại phục vụ nông sản sạch. Tổ chức liên kết sản xuất và lưu thông.
Về một số chương trình, dự án tiêu biểu hỗ trợ bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất kinh doanh nông sản, bà Nga cho biết chương trình mục tiêu quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2012-2015 góp phần bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi người tiêu dùng đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Bà Lê Việt Nga - Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) - Ảnh: Việt Tuấn.
Chương trình VietGap và dự án Lifsap nâng cao năng lực cạnh tranh và an toàn thực phẩm ngành chăn nuôi. Số liệu Bộ Công Thương cho thấy đây là dự án tiêu biểu chăn nuôi, giết mổ tốt, chế biến và tiêu thụ vật nuôi đi kèm tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm trong chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi.
Bộ Công Thương thời gian qua đã lồng ghép các vấn đề như làm thế nào hỗ trợ nông nghiệp đưa ra thực phẩm an toàn cho người dùng trong nước, ban hành quy hoạch về chợ, siêu thị, cửa hàng tiện lợi… Khuyến khích chính quyền địa phương đầu tư cải tạo chợ, xây dựng mô hình thí điểm chơ an toàn thực phẩm tại 32 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
“Triển khai mô hình chuỗi sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm, phối hợp Cục thuộc Bộ Nông nghiệp đưa sản phẩm nông sản sạch, phối hợp Sở Công thương Hà Nội, Đà Nẵng, Tp.HCM tổ chức kết nối cung cầu hàng hoá giữa các cơ sở công nghiệp nông thôn với hệ thống. Phối hợp với Sở Công thương Tp.HCM tổ chức hoạt động kết nối cung cầu hàng hoá giữa Tp.HCM với các tỉnh thành Đông Nam Bộ, hơn 1300 hợp đồng được ký kết, đủ đáp ứng 40-50% tuỳ loại nông lâm thuỷ sản cung cấp cho Tp.HCM”, bà Nga dẫn số liệu.
Về hiện trạng xây dựng chuỗi cung ứng nông sản gắn liền với hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm chuyên nghiệp của các doanh nghệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn tại Việt Nam bà Nga cho biết, chuỗi ngang đã được hình thành là hệ thống các siêu thị đã được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm như Metro với 19 cơ sở, Big C với 32 cơ sở, Fivimart với 18 cơ sở, Vinmart + với trên 200 cơ sở… và hệ thống các cửa hàng chuyên doanh BigGreen, T&T, BacTom.. Chuỗi mô hình thí điểm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp tại 12 tỉnh.
Cũng theo bà Nga, theo chuỗi dọc, hệ thống chuỗi được Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản xác nhận thí điểm là 85 cơ sở tại 18 tỉnh, thành phố, hệ thống VinEco, FVF…
Nhận xét về chuỗi cung ứng nông sản an toàn tại Việt Nam, bà Nga cho biết, các kênh phân phối hiện đại tổ chức theo chuỗi hiện chiếm khoảng trên 25% lượng tiêu thụ nông sản tươi sống và đang phát triển mạnh cùng với sự ra đời của các cơ sở phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng phân phối nông sản thực phẩm chuyên doanh và các chương trình kết nối cung cầu do Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp tổ chức.
Theo bà Nga, các hình thức chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam phong phú, đa dạng, hoạt động hiệu quả, chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp có sẵn hệ thống phân phối bán lẻ có hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm chuyên nghiệp.
Thực phẩm an toàn qua các kênh phân phối hiện đại sẽ chiếm trên 40% thị phần năm 2020
“Tuy còn phải đối diện với nhiều thách thức nhưng cung ứng nông sản theo chuỗi là xu hướng phát triển mạnh trong 5 năm tới cũng như những năm tiếp theo. Dự báo đến năm 2020 nông lâm thuỷ sản an toàn phân phối tại các kênh phân phối hiện đại có thể chiếm trên 40% thị phần trong nước”, bà Nga cho biết.
Về vai trò người tiêu dùng trong hỗ trợ xây dựng chuỗi cung ứng nông sản an toàn, bà Nga cho rằng, cần chấp nhận và ủng hộ nông sản có xuất xứ, xác nhận an toàn với giá cả hợp lý, “nói không với thực phẩm bẩn”. Đồng thời, phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội có chức năng giám sát, phát hiện các hành vi gian lận thương mại, vi phạm hình sự lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn.
Bà Nga cũng cho rằng, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam có vai trò tuyên truyền, vận động và kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm. Cơ quan này đã ban hành Chương trình Số 90/CtrPH/CP-CTUBTWMTTQVNHà Nội ngày 30/3/2016 phối hợp vận động và giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm giai đoạn 2016-2020. Chương trình sẽ tập trung vào việc nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi, phải làm sao để người sản xuất thấy được họ vừa là người làm ra sản phẩm nhưng cũng là người tiêu dùng.
Bà Nga nhấn mạnh vai trò của hội nông dân, đó là tăng cường vận động nông dân sản xuất, kinh doanh sản xuất nông nghiệp bảo đảm an toàn thực phẩm. Đồng thời, xây dựng và nhân rộng các mô hình nông nghiệp thuỷ hải an toàn, quảng bá, hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản an toàn. Các hiệp hội bán lẻ, hiệp hội chợ Việt Nam và các tổ chức tăng cường kinh doanh thực phẩm sạch, đầu mối liên kết tiêu thụ nông sản an toàn. Giúp người tiêu dùng nhận thức được tầm quan trọng, địa điểm kinh doanh. Người sản xuất, kinh doanh phát triển chuỗi cung ứng nông sản theo chiều rộng và chiều sâu.
Tại hội thảo, bà Nga cũng chỉ ra một số tồn tại như khó tiêu thụ nông sản an toàn do giá thành cao so với bộ phận người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp. phần lớn các dự án, mô hình khi thực hiện “thí điểm” thì thành công nhưng đến khi nhân rộng đại trà lại gặp khó khăn hoặc dừng thực hiện khi hết hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, điều kiện cơ sở vật chất sản xuất, kinh doanh nông sản an toàn còn nhiều hạn chế…
Đồng thời, khuyến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các bộ ngành, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp trong triển khai chương trình kết nối để hỗ trợ tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm an toàn.
Bên cạnh đó, địa phương cần quan tâm công tác đầu tư nâng cấp hạ tầng thương mại đặc biệt chợ truyền thống, tổ chức vùng nông sản an toàn cung ứng cho kênh phân phối trên địa bàn.
Các doanh nghiệp tiếp tục áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như VietGap, ISO và đăng ký cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong sản xuất và kinh doanh tại hệ thống của các Bộ ngành tổ chức, phân cấp.
Bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank - Ảnh: Việt Tuấn.
70% dư nợ cho vay của Agribank đối với nông nghiệp - nông thôn
Phát biểu tại hội nghị, bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank nhìn nhận, có một vấn đề đang tồn tại mà chúng ta phải thừa nhận đó là nền nông nghiệp của Việt Nam đang duy trì phương thức sản xuất cũ, lạc hậu, đa phần đang sản xuất manh mún, mạnh ai người ấy làm theo kiểu tự phát, việc sử dụng tràn lan không kiểm soát các chất cấm trong sản xuất ở tình trạng đáng báo động, chất lượng đầu ra của sản phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, tính liên kết hạn chế, nếu không nói là yếu kém, ứng dụng công nghệ cao mới bắt đầu triển khai ở giai đoạn thí điểm… dẫn đến chất lượng hàng hóa nông sản Việt Nam rất khó tìm được chỗ đứng ở các thị trường tiềm năng nhưng khắt khe khi đặt tiêu chuẩn chất lượng lên hàng đầu.
Còn ở thị trường nội địa, người dân phải đối mặt với tình trạng thực phẩm bẩn, không an toàn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và niềm tin của người tiêu dùng. Trong khi đó, với hàng loạt FTA và TPP vừa được ký kết, cơ hội để hàng hóa các nước tràn vào thị trường Việt Nam và hàng nông sản Việt mất chỗ đứng ngay trên “sân nhà” đang ngày càng hiện hữu.
Để thay đổi được tình trạng này và phát triển bền vững theo hướng nông sản sản xuất ra đảm bảo chất lượng và tìm được đầu ra, đem lại nhiều giá trị cho các bên tham gia, điều cốt lõi quyết định đó là chúng ta cần thay đổi được nhận thức và ngay lập tức hành động từ việc thay đổi phương thức sản xuất, quy trình sản xuất, tăng tính liên kết, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao… cùng sự phối hợp đồng bộ và quyết liệt từ tất cả các bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, người dân, người tiêu dùng.
Theo lãnh đạo Agribank, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Agribank luôn là ngân hàng chủ lực, gắn bó, đồng hành, hỗ trợ nguồn vốn tín dụng để bà con nông dân, doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp; luôn đi đầu và chủ lực trong đầu tư tín dụng cho 8 chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cho vay phát triển thuỷ sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP...và phần lớn các hộ gia đình, các doanh nghiệp trong vùng bị thiệt hại đều được Agribank cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống.
Với nhận thức sâu sắc, chính tăng trưởng bền vững đem lại thu nhập ổn định cho người sản xuất kinh doanh và giúp Agribank giảm thiểu các rủi ro tín dụng, do đó bên cạnh việc mở rộng đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng, Agribank luôn chú trọng tín dụng vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững, bảo vệ môi sinh, môi trường.
Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, sổ tay tín dụng của Agribank luôn gắn việc thẩm định dự án, phương án vay vốn với vấn đề đảm bảo môi sinh, môi trường, các dự án phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt của cấp thẩm quyền theo quy định của pháp luật, kiên quyết loại trừ cấp tín dụng đối với các dự án có khả năng ảnh hưởng lớn và nghiêm trọng đến môi trường - xã hội, bà Nguyễn Thị Phượng nói.
Tính đến 30/6/2016, dư nợ cho vay của Agribank đối với nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 70% dư nợ cho vay của ngân hàng, trong đó một số chương trình cho vay gắn với phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững như sau:
Cho vay theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (bao gồm cả Nghị định 41/2010/NĐ-CP): Dư nợ đạt 277.422 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2015 và tăng 52,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cho vay thông qua tổ liên kết: Tổng dư nợ trên 58 nghìn tỷ đồng, thông qua trên 44 nghìn tổ vay vốn với trên 1 triệu thành viên.
Cho vay Chương trình xây dựng nông thôn mới: Chương trình xây dựng nông thôn mới đã triển khai đến toàn bộ các xã trên địa bàn cả nước theo chủ trương của Chính phủ. Dư nợ đạt trên 271 nghìn tỷ đồng, tăng trên 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái, với trên 2,5 triệu khách hàng.
Cho vay ưu đãi lãi suất đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và thông tư 06/2009/TT-NHNN: Dư nợ đạt trên 2.800 tỷ đồng, tăng trên 32,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với trên 58 nghìn khách hàng còn dư nợ.
Cho vay tái canh cà phê theo Văn bản 3227/NHNN-TD ngày 11/05/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Dư nợ đạt 761 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái, số lượng khách hàng còn dư nợ là 6.580 khách hàng.
Cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản: Dư nợ cho vay đóng mới, nâng cấp tàu khai thác 983 tỷ đồng, số tàu đã cho vay: 203 tàu; cho vay đóng mới, nâng cấp tàu dịch vụ hậu cần dư nợ: 287 tỷ đồng, số tàu đã cho vay: 52 tàu.
Cho vay thí điểm phát triển chuỗi liên kết và ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao theo Nghị quyết 14/2014/NQ-CP của Chính phủ: dư nợ đạt 653 tỷ đồng… Thực tế cho thấy, tất cả các đối tác tham gia chuỗi liên kết đều giảm được chi phí hoạt động, sản phẩm đầu ra tìm được chỗ đứng tại các thị trường giàu tiềm năng nhưng cũng rất khắt khe về các tiêu chí xanh, sạch, an toàn...
“AgriBank tiếp tục rà soát, sửa đổi hoặc ban hành mới cơ chế chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp theo hướng gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp quy định của pháp luật, không đầu tư tín dụng nếu dự án chưa được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng, phát triển không bền vững”, bà Nguyễn Thị Phượng nói.
Lãnh đạo Agribank cũng kiến nghị cơ quan nhà nước các cấp xem xét hoặc tham mưu thẩm định, phê duyệt, đảm bảo tính pháp lý các dự án, phương án vay vốn theo chương trình tín dụng xanh để tạo điều kiện cho Agribank đẩy nhanh tiến độ thẩm định cấp tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét triển khai cụ thể hơn hệ thống các giải pháp toàn diện bảo đảm hệ thống ngân hàng có thể phục vụ hiệu quả cho mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững mà đối tượng thụ hưởng chính là các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực xanh, thân thiện với môi trường.
Agribank và Tập đoàn Vingroup ký kết hợp tác
Tại hội thảo, Agribank và Tập đoàn Vingroup đã ký kết hợp tác nhằm tăng cường hợp tác về đầu tư và phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững. Theo đó, nguồn tín dụng xanh của Agribank sẽ đồng hành cùng chuỗi nông sản, thực phẩm sạch Vinamart của Vingroup, đáp ứng nhu cầu về thực phẩm an toàn của người dân trên cả nước.
Bà Dương Thị Mai Hoa, Tổng giám đốc Tập đoàn Vingroup và bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank ký kết hợp tác.
Phiên thảo luận
Mở đầu phiên thảo luận, ông Nguyễn Việt Hùng - Viện nghiên cứu chăn nuôi quốc tế chia sẻ: “Nông nghiệp an toàn" là chủ đề rất rộng, không chỉ là an toàn thực phẩm mà nhìn rộng ra là nói đến an toàn cho người nông dân, môi trường và các tác nhân tham gia chuỗi.
Nhìn bức tranh an toàn thực phẩm hiện nay thấy rất “nóng” và rất mất an toàn với các nguy cơ “ung thư”…, nhưng nghe cơ quan quản lý bức tranh tích cực hơn, nhiệm vụ các bên rất rõ ràng, cho chúng ta nhiều hi vọng. Khi xem thực tế vẫn có hi vọng dù vẫn còn băn khoăn có làm được hay không.
Với tinh thần như thế, trong hội nghị thảo luận 4 chủ đề khác nhau, tập trung nhìn vào thách thức, bất cập trong chính sách quản lý. Bên cạnh đó là câu chuyện phát triển thương hiệu như thế nào, vấn đề minh bạch thông tin trong truyền thông để người dân không hoang mang, câu chuyên đối tác, liên kết trong chuỗi…
Tránh việc phác họa một bức tranh gây hoang mang
Ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) chia sẻ, người Việt Nam có câu rất hay là "nhất ăn nhì mặc". Về vấn đề ăn uống. Chúng ta đã đàm phán thế giới để thực hiện xuất khẩu nông sản thực phẩm cho họ từ khâu nuôi trồng cho đến bàn ăn.
"Chúng ta bán thực phẩm an toàn cho nước ngoài họ ăn trong khi trong nước lại không làm được. Điều này không phải quá cao xa, chúng ta chắc chắn làm được nếu quyết tâm”, ông Tự nói.
Theo đó, hệ thống chính sách, quy chuẩn chưa đầy đủ khiến nhiều tranh cãi thực phẩm. Chẳng hạn, vẫn nói cà phê bẩn nhưng không biết bẩn thế nào. Việc của nhà quản lý là phải ban hành tiêu chuẩn cà phê rang xay, từ đó kiểm soát chất lượng.
Ông Tự cho biết, việc quản lý an toàn thực phẩm được giao cho Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ Y tế) nhưng lại phân chia nhỏ, quản lý đồng ruộng là Bộ Nông nghiệp, quản lý lưu thông là Bộ Công Thương,… Vì vậy cần phải có sự phối hợp giữa các bộ ngành tốt.
Với các cơ quan báo chí bên cạnh việc chỉ ra thực phẩm bẩn thì phải chỉ ra những nơi bán thực phẩm sạch để người dân mua dùng, tránh việc phác hoạ một bức tranh thực phẩm bẩn, gây hoang mang.
Từ ý kiến được ông Tự nêu ra, ông Hùng tóm lược rằng, người Việt Nam có thể sản xuất được thực phẩm sạch, vấn đề là do sự điều phối chưa tốt giữa các bộ, ngành và truyền thông cần nói về các doanh nghiệp cung cấp thực phẩm an toàn thay vì chỉ đưa tin về các sự việc thực phẩm bẩn, không an toàn.
Cũng theo ông Hùng, có vẻ hiểu biết của các vị đại biểu và mọi người về trách nhiệm Bộ Nông nghiệp, Bộ Y tế, Bộ Công Thương chưa rõ ràng thậm chí hiểu sai lệch, Chính phủ đang có kế hoạch sửa đổi, rà soát lại.
Các diễn giả trình bày trong phiên thảo luận - Ảnh: Việt Tuấn.
Các bộ “hơi khó” ngồi lại với nhau
Ông Nguyễn Hùng Long, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (Bộ Y tế) cho rằng, trên thực tế, Luật đã có 5 năm rồi nhưng thực tế vẫn chưa có cách hiểu chưa đúng. Theo phân công, Chính phủ là đầu mối quản lý về vấn đề vệ sinh an toàn thưc phẩm. Việc quản lý phân công 3 Bộ trực tiếp quản lý, trong đó mỗi bộ quản lý một số nhóm ngành thực phẩm.
Bộ quản lý nhóm nào thì quản lý suốt cả chuỗi từ A-Z chứ không phải Bộ Nông nghiệp quản lý ngoài ruộng, Bộ Công Thương quản lý thị trường, Bộ Y tế quản trên bàn ăn.
Đặc biệt, thực phẩm cũng không như các loại sản phẩm, hàng hoá khác, chỉ do một cơ sở sản xuất ra. Một cơ sở có thể sản xuất ra thực phẩm do cả 3 bộ quản lý. Do đó, 3 Bộ đã thống nhất ban hành thông tư liên tịch phân ra các nhóm ngành hàng...
Ngoài ra, cũng theo ông Long, những điểm chưa thống nhất, còn mới Bộ Y tế sẽ chịu trách nhiệm, quá trình thực tế có những điểm liên quan “hơi khó” các Bộ sẽ ngồi lại với nhau.
“Như vậy, việc phân công tương đối rõ ràng và trong thực hiện cũng cần sự phối hợp, chúng tôi trình đề án đánh giá triển Luật An toàn thực phẩm sau 5 năm, tôi đã đọc thông tin trên báo chí, đưa ra 6 chương trình đánh giá thực hiện pháp luật, luật an toàn thực phẩm sẽ được Quốc hội đánh giá là giám sát tối cao do Quốc hội giám sát”, ông Long cho hay.
Ông Long cũng cho biết, Tp.HCM dưới sự chỉ đạo của ông Đinh La Thăng đang tiến hành bước thành lập cơ quan gồm 3 sở và đang trong quá trình xây dựng đề án và xin ý kiến. Nhiều ý kiến nói phải đưa về một cơ quan tuy nhiên Chính phủ đang chờ đánh giá tiếp theo sau đó mới bàn đến việc nêu trên.
“Cần phải khiến họ sợ để không dám sử dụng chất cấm”
Ông Hoàng Thanh Vân - Cục trưởng Cục chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). cho rằng cần phải truy ra ai là người gây ra mất an toàn sản phẩm và giải quyết với từng đối tượng. Có 3 nhóm chính là: sản xuất, lưu thông và một nhóm khác là thúc đẩy kích thích sử dụng chất cấm, chất độc.
Hiện Cục Chăn nuôi đang triển khai một số hành động như chương trình "Nói không với chất cấm". Sau hơn 2 tháng, đã có 47 tỉnh tham gia, phấn đấu 1 triệu chữ ký không sử dụng chất cấm. Điều này tạo tác động lan toả, ý thức với những người sản xuất.
Đồng thời, Cục cũng đang tiến hành tháo gỡ khó khăn doanh nghiệp. Chỉ có doanh nghiệp mới có thể nói với người dân và Nhà nước về sản phẩm an toàn. Đây là đối tượng quan trọng nhất, bản thân doanh nghiệp khi đã ý thức được sản phẩm an toàn sẽ kiên quyết nói với người dân không được dùng chất cấm, giám sát nông dân.
Vấn đề thứ 3, theo ông Vân, quan trọng nhất là thể chế, người chăn nuôi cũng làm ăn, kiếm tiền, sợ pháp luật nhưng hình như họ nghĩ pháp luật nằm ngoài ngoài sản xuất và họ không sợ pháp luật.
“Cần phải khiến họ sợ, và nghe thông tin để không dám sử dụng chất cấm, cần cứng rắn để ngăn cấm. Nói loạn thuốc nhưng không xử lý cứ để người nông dân làm do đó cần truy tố, người nông dân mới sợ. Cần sửa đổi 1 số điều trong bộ Luật Hình sự, tôi tin chất cấm sẽ giảm mạnh và nhiều người không dám dùng”, ông Vân nhấn mạnh.
Cũng theo ông Vân, Cục Chăn nuôi đang nghiên cứu và sẽ đề xuất với Chính phủ một số nội dung liên quan đến vấn đề nêu trên, kỳ vọng có sự chuyển biến từng bước, từ từ.
Sau ý kiến được ông Vân nêu ra, ông Hùng tóm lược, việc thực thi Luật là quan trọng, đây là những thay đổi trong câu chuyện quản lý chất cấm.
Trao đổi tại hội nghị, ông Hùng cho biết, một vị đại biểu đặt câu hỏi tại sao không cho phép công ty tư nhân thực hiện xây dựng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm như ISO, VietGAP… Chị Phan Ngọc Thảo đến từ công ty Luật cũng đặt câu hỏi: với sứ mệnh đồng hành cùng doanh nghiệp, chúng tôi phải làm nhiều chứng nhận về quy trình chứng nhận tiêu chuẩn, nhưng bản thân doanh nghiệp rất khó thực hiện quy trình này mà tổng chi phí khá cao. Vậy, nhà nước có khuyến nghị doanh nghiệp thực hiện quy trình này hay không?
Trả lời câu hỏi trên, ông Phùng Hữu Hào, Phó cục Trưởng cục Quản lý Chất lượng nông lâm và thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, nói về các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng có VietGAP, ISO… phải ghi nhận trong đó có hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam cam kết kiểm soát theo tiêu chuẩn quốc tế. Còn về bản thân doanh nghiệp muốn áp dụng một hệ thống nào đó phải xuât phát từ việc doanh nghiệp muốn tiêu thụ ở thị trường nào. Ví dụ thị trường EU rất khó tính yêu cầu hệ thống tiêu chuẩn cao như HACCP hay ISO 2000, thì phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đó.
Ông Hào cho biết nguyên tắc của sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng tiêu chuẩn của Việt Nam và đáp ứng xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp chỉ định tiêu thụ trong nước nhưng nếu muốn đăng ký tham gia vào chuỗi sản phẩm an toàn thì phải đáp ứng quy trình của Bộ Nông nghiệp.
Chẳng hạn, các cơ sở sản xuất đáp ứng yêu cầu đủ điều kiện chứng nhận an toàn thực phẩm. Điều này đơn giản hơn nhiều những tiêu chí như VietGAP. Các cơ sở sản xuất cần phải định hướng sản phẩm hướng vào đối tượng nào. Chuỗi thực phẩm an toàn nào, ở địa phương nào cho đến điểm bày bán đều có lực lượng quản lý tại địa phương đó giám sát. Đây là ban đầu, về lâu dài phải giám sát, xã hội hoá. Nhà nước không thể làm tất cả mà đòi hỏi sự vào cuộc của các tổ chức khác để giám sát thực phẩm an toàn.
Hàng trăm đại biểu, khách mời tham dự hội nghị - Ảnh: Việt Tuấn.
Ngoài hệ thống chứng nhận an toàn của Nhà nước, có một số chuỗi của tư nhân mở ra. Họ có đưa ra một số những yêu cầu tiêu chuẩn riêng. Vấn đề là người dân có muốn đưa sản phẩm của họ vào các chuỗi thực phẩm an toàn đó không.
Ông Hào thông tin thêm, thực tế hiện nay chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các cơ quan có liên quan như Cục Trồng trọt, Cục Chăn nuôi đang tiến hành đơn giản hoá tiêu chuẩn VietGAP xuống còn gần 20 tiêu chí.
Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Tâm, đại diện doanh nghiệp chăn nuôi Giang Sơn, nằm ở địa bàn tương đối khó khăn, xa trung tâm và thiếu hụt vốn đặt vấn đề trực tiếp tới bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Agribank rằng, sản phẩm của đơn vị đã được thị trường ghi nhận nhưng nguồn vốn có hạn, doanh nghiệp cần nguồn vốn hỗ trợ vay tín chấp.
Bà Phượng cho biết, bà đề nghị có trao đổi riêng với đại diện Công ty Cổ phần Giang Sơn liên quan đến vấn đề giải quyết vốn cho doanh nghiệp.
Bà Phượng cũng thông tin rằng, để có thể cấp vốn cho dự án chăn nuôi phía Ngân hàng bắt buộc có đánh giá, cân nhắc về tính khả thi dự án.
Thứ hai, về hiệu quả phương án, ngân hàng quan tâm việc công ty tổ chức sản xuất, kiểm soát yếu tố đầu vào, quản lý chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, là các hợp đồng tiêu thụ tức là tính ổn định đầu ra.
Thứ ba, quản lý khép kín chuỗi cung ứng bán hàng, dòng tiền được thanh toán như nào. Ngân hàng có ưu đãi, cho vay với tỷ lệ 90% vốn dự án mà yếu tố tài sản đảm bảo không phải là yếu tố hàng đầu.
“Chúng tôi đang cố gắng gia tăng khách hàng, thay vì đầu tư vốn cho từng hộ gia đình nhỏ lẻ chúng tôi khuyến khích đầu tư, cho vay với những dự án lớn, mô hình hợp tác xã”, bà Phượng kết luận và hẹn gặp đại diện Công ty Cổ phần Giang Sơn sau buổi hội thảo.
Tại hội thảo, anh Hùng hỏi bà Phượng trong thời gian tới có thể hợp tác đầu tư mạnh vào nông nghiệp. Bà Phượng cam kết, tới đây sẽ có hợp tác toàn diện triển khai về nông nghiệp với Hợp tác xã. Hiện ngân hàng Agribank đã có hợp tác với Hội nông dân và nhiều tổ chức sản xuất nông nghiệp khác. Theo đó với xu hướng sản xuất nông nghiệp với ngân hàng sẽ nghiên cứu, triển khai dự án phù hợp.
Phổ biến quy định pháp luật về thực phẩm tới người dân
Ông Ngô Văn Hiệp - Trưởng Phòng Luật sư tại Hà Nội nêu ý kiến: "Tôi đã nghiên cứu và thấy cơ bản văn bản, quy định hiện nay khá hoàn chỉnh nhưng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm ngoài việc doanh nghiệp và các cá nhân bất chấp đạo đức mà còn do công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước còn kém".
Theo ông Hiệp, hầu hết các vụ việc vi phạm hiện nay đều do báo chí hoặc người dân thông báo, cơ quan quản lý rất thụ động. Bên cạnh đó, chế tài không có hoặc quá nhẹ cũng là nguyên nhân khiến người ta không tuân thủ. Về nội dung này, cơ quan nhà nước cần xem lại. Ngoài ra, cũng cần có quy định khuyến khích tố cáo và có phần thưởng khi mà các vụ việc do báo chí và quan Nhà nước phát hiện.
Các diễn giả trình bày trong phiên thảo luận - Ảnh: Việt Tuấn.
Ông Hùng nêu vấn đề, có câu hỏi là hiện nay nhiều doanh nghiệp lớn như Vingroup, HAGL bắt đầu tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và nhưng câu chuyện là với hơn 10 triệu cá nhân nhỏ lẻ tham gia cần có giải pháp như thế nào để giúp họ sản xuất ra được những sản phẩm an toàn.
Ông Hào cho biết, viêc hướng dẫn hộ nông dân thực hành sản xuất nông nghiệp tốt đã được Cục Thực vật thực hiện trong nhiều năm qua. Cục Thực vật đã thường xuyên tổ chức hội thảo, hội nghị, thực hành quy trình thực phẩm tốt.
Việc phổ biến văn bản pháp lý, quy định đã được các cơ quan nhà nước và địa phương ban hành và phổ biến tới người dân. Các nông dân có sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tốt dựa trên tạo ra những sản phẩm an toàn, đáp ứng ứng nhu cầu của xã hội.
“Hội nhập rồi nhưng sức cạnh tranh vẫn yếu”
Phát biểu bế mạc hội thảo, ông Phạm Xuân Đương, Phó trưởng Ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương đánh giá cao những thông tin được nêu ra tại hội nghị từ phía các Bộ, ngành, các cơ quan chức năng có liên quan và các doanh nghiệp.
“Tôi cho rằng đây là những vấn đề không chỉ những người trong hội trường mà toàn xã hội đặc biệt người dân sẽ rất quan tâm. Kết quả là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước chỉ đạo, điều hành rà soát bổ sung vào chương trình mục tiêu hàng năm, có thể duy trì hội thảo và nâng cấp thành diễn đàn, trước trong và sau diễn đàn tiếp thu các ý kiến của người tiêu dùng, người sản xuất.
Diễn đàn Nông nghiệp an toàn nên làm 1 năm 1-2 lần có thể ở khu vực hoặc toàn quốc. Bổ sung không chỉ Nông nghiệp An toàn mà phải Hiệu quả. Vì thực tế hiện nay sản xuất ở Việt Nam rơi vào tình trạng được mùa mất giá chẳng hạn như mặt hàng gạo, hoa quả… do đó bốn nhà cần tập trung và gắn kết với nhau hơn”, ông Đương chia sẻ.
Theo ông Đương, các diễn đàn về nông nghiệp an toàn còn nên đề cập tới vấn đề thực phẩm sạch, tới thực tế hiện nay nhiều người sống tại nhà cao tầng vẫn trồng đủ các loại rau thơm, rau thì là… Theo đó, tại các diễn đàn còn là cơ hội để giới thiệu kinh nghiệm chuẩn bị như thế nào, chăm sóc như thế nào để người dân trồng rau sạch tại nhà.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là 3 Bộ: Công Thương, Nông nghiệp, Y tế. Căn cứ Hội thảo là cơ sở để bổ sung, giải pháp, tuyên truyền đã có hội nhà báo, khoa học kĩ thuật phải có Bộ Khoa học và Công nghệ.
“Các đồng chí nói trên chợ thì Bộ Công Thương quản lý, bàn ăn là Bộ Y tế, đồng ruộng là Bộ Nông nghiệp nhưng Bộ nào cũng quan trọng. Tôi cho rằng còn cần bổ sung thêm 1 số cơ quan nữa”, ông Đương nói.
Ông Đương cũng nhấn mạnh” Việt Nam là đất nước nông nghiệp và trên đường công nghiệp hoá, làm sao để biến nông nghiệp thành sản phẩm công nghiệp. Chúng ta hội nhập rồi nhưng sức cạnh tranh vẫn yếu và phải phát triển công nghiệp vì không có nông nghiệp thì năng suất, hiệu quả không cao”.
“Hàng hoá nông nghiệp phải có giá trị gia tăng, các sản phẩm từ nông nghiệp, công nghiệp cần tính hiệu quả đảm bảo năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm”, ông Đương kết luận.