Diễn đàn trực tuyến giữa các chuyên gia với bạn đọc để cùng nhìn lại tình hình kinh tế vĩ mô và hoạt động sản xuất kinh doanh
Hàng chục nghìn doanh nghiệp đã phải đóng cửa, phá sản, hoặc phải sản xuất kinh doanh cầm chừng; nợ xấu gia tăng và trở thành mối quan ngại về tình hình sức khỏe của doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng.
6
tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4,38%, là mức thấp
trong nhiều năm; tăng trưởng tín dụng dự kiến chỉ dương nhẹ cũng là một
bất thường; nhập siêu so với xuất khẩu chỉ bằng 1,3%, cũng là mức thấp
trong nhiều năm; thặng dư cán cân thanh toán tổng thể khoảng 7,5 tỷ USD
là con số hiếm thấy, và dự trữ ngoại hối tăng tới 10 tỷ USD; sau 38
tháng tăng liên tiếp, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã chính thức sụt giảm
với -0,26% trong tháng 6…
Trong bức tranh kinh tế vĩ mô đó, hàng
chục nghìn doanh nghiệp đã phải đóng cửa, phá sản, hoặc phải sản xuất
kinh doanh cầm chừng; nợ xấu gia tăng và trở thành mối quan ngại về tình
hình sức khỏe của doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng.
Nhiều
chính sách đã được điều chỉnh, ban hành, đặc biệt là các chính sách tài
khóa và tiền tệ. Liệu những ứng xử của chính sách vừa qua đã hợp lý, đã
đủ? Nền kinh tế đã qua giai đoạn khó khăn nhất và hy vọng phục hồi đã
thắp lên? Đâu là điểm đến của kinh tế vĩ mô năm 2012, hay cụ thể là thị
trường chứng khoán, thị trường bất động sản, sản xuất và tiêu dùng? Quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế, mà cụ thể là với các doanh nghiệp và hệ
thống ngân hàng đã đến đâu?...
Nhằm tạo diễn đàn trao đổi thông
tin xoay quanh những câu hỏi trên, từ 14h - 16h30 chiều 9/7/2012,
VnEconomy đã tổ chức buổi giao lưu trực tuyến tại Hà Nội giữa các chuyên
gia kinh tế cùng bạn đọc với chủ đề: “
Từ nợ xấu, phá sản đến hy vọng phục hồi
”.
Các diễn giả tham gia buổi giao lưu:
- Ông
Trương Đình Tuyển
, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia.
- Ông
Lê Đăng Doanh
, chuyên gia kinh tế cao cấp.
- Ông
Võ Trí Thành
, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).
- Ông
Nguyễn Xuân Thành
, Giám đốc Chính sách công - Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright (ông Thành sẽ tham gia diễn đàn trực tuyến từ Tp.HCM).
- Ông
Đỗ Minh Phú
, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vàng bạc đá quý Doji, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Tiên Phong (TienPhong Bank).
Các diễn giả có mặt tại diễn đàn cùng lãnh đạo Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Đặng Hoài Thu - Nữ 28 tuổi - KD Bất động sản:
Xin
hỏi các chuyên gia là nợ xấu ngân hàng hiện nay là bao nhiêu, tại sao
lúc thì khoảng 3-4% lúc thì 10%? Nợ bất động sản lúc thì 200.000 tỷ
đồng, mới đây lại 348.000 tỷ đồng vào cũng thời điểm cuối năm 2011 do
các cơ quan khác nhau đưa ra? Đâu là con số thực? Xin trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Hiện
nay, Việt Nam có nhiều nguồn thông tin về nợ xấu. Nguồn thông tin chính
thức nhất là số liệu do Ngân hàng Nhà nước công bố dựa trên việc tổng
hợp số liệu báo cáo của từng tổ chức tín dụng. Con số này vào cuối tháng
4 là 4,14% dư nợ, khoảng 108.600 tỷ đồng. Con số này cũng khớp với số
liệu nợ xấu (nợ nhóm 3-5 được thể hiện trong nội dung thuyết minh báo
cáo tài chính của các tổ chức tín dụng).
Ngoài ra, các cơ quan
quản lý nhà nước cũng tính toán lại các con số do các tổ chức tín dụng
báo cáo hoặc số liệu thông qua các đợt thanh tra. Các số liệu này luôn
cao hơn con số ban đầu. Con số 10% là số liệu do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước báo cáo trước Quốc hội vào thời điểm cuối tháng 6/2012 và có thể
được hiểu đây là con số báo cáo theo Ngân hàng Nhà nước.
Nguồn
thông tin thứ ba là tỷ lệ nợ xấu do Fitch công bố. Về cơ bản Fitch sử
dụng số liệu tài chính của tổ chức tín dụng Việt Nam nhưng phân loại nợ
theo chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Số liệu Fitch đưa ra thường gấp 3 lần số con số chính thức.
Ngo The Vien - Nam 59 tuổi - Xay dung:
Trong
nhiều năm qua phần lớn các doanh nghiệp nhà nước do đầu tư dàn trải, hệ
thống quản lý kiểm soát lỏng lẻo, vay vốn đầu tư chủ yếu từ nguồn ngân
hàng nên nợ xấu đến nay rất cao. Vậy xin hỏi các chuyên gia, nhà nước có
nên cứu những khoản nợ này? Cứu bằng cách nào?
Ông Lê Đăng Doanh:
Trong
những năm vừa qua, khi nguồn tín dụng rất dồi dào, mức tăng trưởng bình
quân tăng 37%/năm thì nhiều doanh nhân, cả doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân đầu tư kinh doanh dựa vào vốn tín dụng của ngân
hàng một cách rất tự nhiên và không có khó khăn gì.
Khi lãi suất
lên cao, chi phí tín dụng rất lớn. Từ năm 2011 cho đến nay, Chính phủ
áp dụng chính sách tín dụng chặt chẽ, giảm tổng mức tín dụng. Cộng với
lãi suất cao, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Ông tỷ phú Waren Buffet
đã nói khi thủy chiều rút mới biết ai bơi không mặc áo tắm, muốn nói
rằng, khi tín dụng hạn chế và lãi suất cao thì lộ ra những doanh nghiệp
nào đã kinh doanh dựa nhiều vào tín dụng ngân hàng.
Nợ xấu xuất
hiện từ nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân từ biến động thị trường nhưng
cũng có nguyên nhân từ sai lầm trong đầu tư trong kinh doanh. Cần phân
loại các loại nợ xấu và phân loại các doanh nghiệp để có phương án xử lý
nợ xấu một cách thích hợp. Về nguyên tắc chỉ có thể xử lý những khoản
nợ xấu nào của những doanh nghiệp còn có khả năng cứu được.
Một
số khoản nợ xấu của những doanh nghiệp, cả doanh nghiệp nhà nước lẫn
doanh nghiệp tư nhân thiếu những tố chất cơ bản thì không thể có biện
pháp giải cứu. Những doanh nghiệp đó phải chấp nhận phá sản. Và phá sản
trong kinh tế thị trường là một sự “tàn phá sáng tạo”. Sẽ có một nhà đầu
tư mới mua lại nhà xưởng thiết bị và xây dựng một doanh nghiệp hoàn
toàn mới. Đó là quy luật đào thải của kinh tế thị trường.
Văn Hòa - Nam 47 tuổi - Doanh nhân:
Sau
một thời gian dài chịu đựng, lãi suất đã liên tục giảm nhanh, hiện còn 9
– 12%. Các chuyên gia đánh giá thế nào về việc điều hành lãi suất trong
thời gian qua? Dự báo từ nay đến cuối năm lãi suất có giảm được nữa
không? Tăng trưởng tín dụng thì thấp như vậy, sao không thấy ai chịu
trách nhiệm về việc điều hành không đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu, để rồi
các doanh nghiệp và người dân là những đối tượng phải gánh chịu? Xin các
chuyên gia chia sẻ.
Ông Võ Trí Thành:
Về
việc điều hành giảm lãi suất huy động thì theo tôi phù hợp với xu hướng
giảm lạm phát. Trong một chừng mực nhất định thì nó cũng phản ánh
chuyển dịch trong chính sách tiền tệ, lỏng đi một chút. Tuy nhiên, rõ
ràng điều hành lãi suất chưa đủ, và để mà kéo lãi suất cho vay xuống thì
phải kết hợp nhiều việc.
Ví dụ: Xử lý nợ xấu thì bên cạnh cải
thiện thanh khoản, cũng cần xử lý ngân hàng yếu kém nhất, tăng cường cơ
chế bảo lãnh tín dụng (đã có trước). Tuy nhiên, nếu nhìn góp độ phối hợp
như vậy thì cách làm có phần chậm và cũng chưa thật quyết liệt.
Theo tôi để giảm được lãi suất, câu chuyện phải kết hợp các việc trên, còn phụ thuộc mấy điều sau:
- Một là, khả năng hồi phục hay tiếp tục trì trệ của nền kinh tế.
-
Phụ thuộc vào biến động của USD gắn với biến động toàn cầu (điều này có
thể liên quan đến chuyển dịch giá trị vàng và USD trong bối cảnh đô la
hóa nền kinh tế còn cao).
Xét tổng thể, chúng ta không nên khẳng
định giữ lãi suất đứng nguyên. Việc điều chính lãi suất phải kết hợp
với các biên pháp khác, nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Những
vấn đề chúng ta quan sát hiện nay trong hệ thống ngân hàng có phần quan
trọng là sai lầm điều hành chích sách vĩ mô. Trong nhiều năm chúng ta
định hướng thiên về tăng trưởng dựa vào bành trướng đầu tư, nhất là đầu
tư công. Bên cạnh đó, có một phần sai lầm nữa là điều hành giật cục,
hành chính. Điều này gây ra những tác động tiêu cực đến hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Thẳng thắn là nói người chịu trách nhiệm chính
là Chính phủ, trong đó có cơ quan điều hành chính sách vĩ mô. Chúng ta
cần quyết tâm chính trị, hỗ trợ xã hội để vượt qua khó khăn này.
Bản
thân doanh nghiệp trong giai đoạn làm ăn dễ dãi cũng không có được cách
làm ăn bài bản. Nên khi có những cú sốc thì nhiều doanh nghiệp khó đứng
vững được.
Đặng Xuân Khuyến - Nam 52 tuổi - Quản lý:
Các
nước có nền kinh tế thị trường cả trăm năm nay khi kinh tế suy giảm như
chúng ta hiện nay cũng không dễ dàng phục hồi nhanh. Chúng ta làm thế
nào để phát huy ưu thế của hệ thống chính trị hiện tại, mau chóng hồi
phục và phát triển?
Ông Võ Trí Thành:
Thế
giới và Việt Nam cùng trong giai đoạn khó khăn, tăng trưởng chậm lại.
Rủi ro tài chính thì tăng, mức độ bất định thì cao. Trong bối cảnh như
vậy, thường các chính phủ hành động trên hai khía cạnh.
Một là cách thức can thiệp, hỗ trợ thị trường (thích hợp).
Hai là tiến hành cải cách, cơ cấu để trong tương lai có thể tạo ra được sự phát triển chất lượng hơn.
Đây là những vấn đề không đơn giản và vai trò của thể chế của hệ thống chính trị có thể có những ưu, nhược điểm riêng.
Đối
với Việt Nam, một trong những ưu thế là mức độ quyết định tập trung,
nhanh. Tuy nhiên, nó cũng có thể hạn chế nhất định, ví dụ, năng lực, khả
năng giải trình (trong bối cảnh nhiều nhóm lợi ích) còn thiếu.
Chính
vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng, nếu Việt Nam có thể kết hợp hai điểm:
chất chuyên nghiệp, chuyên gia được tăng cường. Kế đến là giải trình và
giám sát.
Đặng Hoài Thu - Nữ 28 tuổi - KD Bất động sản:
Xin
hỏi các chuyên gia là nợ xấu ngân hàng hiện nay là bao nhiêu, tại sao
lúc thì khoảng 3-4% lúc thì 10%? Nợ bất động sản lúc thì 200.000 tỷ
đồng, mới đây lại 348.000 tỷ đồng vào cũng thời điểm cuối năm 2011 do
các cơ quan khác nhau đưa ra? Đâu là con số thực? Xin trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Dư
nợ cho vay bất động sản cũng có các số liệu khác nhau. Đó là do cách
phân loại con số dư nợ bất động sản thấp nhất khớp với việc các ngân
hàng báo cáo dư nợ cho vay bất động sản theo lĩnh vực cho vay các hoạt
động cho vay tài sản, và do vậy chỉ bao gồm cho vay đối với các công ty
bất động sản và không bao gồm cho vay cá nhân.
Ngay cả con số
lớn hơn cũng không tính hết các khoản cho vay bất động sản vì có nhiều
khoản cho vay thực chất là dùng để đầu tư bất động sản nhưng được phân
loại vào các lĩnh vực khác. Còn nếu tính các khoản cho vay được bảo đảm
bằng bất động sản thì con số này sẽ lên trên 50% tổng dư nợ tín dụng.
Vuơng Quốc Cuờng - Nam 27 tuổi - Kinh doanh:
Tại
sao Chính phủ và Ngân hàng Nhà nuớc không cho phá sản các ngân hàng yếu
kém mà lại dự tính thành lập công ty mua bán nợ quốc gia để cứu ngân
hàng? Tại sao không tìm cách giảm lãi suất cho các doanh nghiệp giảm
gánh nặng để doanh nghiệp còn có thể sống và hoạt động. Hiện tại theo
tôi được biết Ngân hàng Nhà nước có chính sách giảm lãi nhưng thực tế
rất ít doanh nghiệp đuợc vay lãi suất thấp, mà các ngân hàng còn thu
thêm các phí dịch vụ rất vô lý để bù vào phần lãi suất giảm.
Ông Lê Đăng Doanh:
Ngân
hàng là một thể chế tài chính rất quan trọng trong kinh tế thị trường,
có chức năng huy động vốn và cấp vốn cho những dự án và doanh nghiệp có
hiệu quả. Vì vậy, trong kinh tế thị trường phá sản của các ngân hàng cần
phải được xem xét hết sức thận trọng.
Việc xử lý các ngân hàng
yếu kém có thể được xử lý bằng cách sáp nhập hoặc mua lại với các ngân
hàng mạnh hơn. Ngân hàng Nhà nước đã bắt đầu quá trình sáp nhập và mua
lại này và sẽ tiếp tục quá trình này trong thời gian tới. Dĩ nhiên không
có loại trừ sẽ có trường hợp nào đó phải đi đến phá sản.
Ngân
hàng Nhà nước đã có nỗ lực lớn liên tục giảm lãi suất huy động nhưng
chậm hạn chế lãi suất cho vay. Các ngân hàng thương mại đã huy động vốn
trong quá khứ với những mức lãi suất cao khác nhau cho nên các ngân hàng
thương mại không thể ngay lập tức giảm lãi suất cho vay mà họ phải tính
toán một mức lãi suất thích hợp để đủ trang trải lãi suất huy động mà
họ đã cam kết trong quá khứ.
Các doanh nghiệp cũng gánh chịu các
khoản tín dụng được vay trong quá khứ với lãi suất rất cao, mãi gần đây
Ngân hàng Nhà nước mới kiến nghị giảm mức lãi suất cho vay của các
khoản tín dụng cũ. Đó là lý do tại sao các ngân hàng thương mại giảm lãi
suất cho vay chậm hơn là lãi suất huy động mà Ngân hàng Nhà nước quy
định.
Các ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp, họ cũng phải
kinh doanh có lãi, họ có tiêu chí lựa chọn để cho vay. Không ít ngân
hàng hiện nay có thanh khoản dồi dào có nhu cầu cho vay và họ đã cho vay
một số doanh nghiệp lớn có thành tích tốt, tức là đã luôn trả nợ đúng
hạn và làm tròn nghĩa vụ thuế với nhà nước. Một số doanh nghiệp khác có
hàng tồn kho có nợ xấu, hiện nay gặp khó khăn trong tiêu thụ, gặp khó
khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn.
Những doanh nghiệp này phải
có phương án giải quyết nợ tồn đọng, có phương án kinh doanh thuyết phục
được ngân hàng thì mới tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của các ngân
hàng. Không có hy vọng có mức lãi suất thấp đồng đều như nhau cho tất cả
các doanh nghiệp.
Cũng có ngân hàng lợi dụng tình hình khó khăn
của doanh nghiệp áp đặt những mức phí để lách quy định của Ngân hàng
Nhà nước, những trường hợp này có thể được xử lý hành chính nhưng về lâu
dài thì những ngân hàng đó tự làm mất tín nhiệm của bản thân mình,
doanh nghiệp sẽ tìm kiếm những ngân hàng khác hoạt động tốt hơn để thay
thế.
Mã Đức Duy - Nam 32 tuổi - Ngân hàng:
Tôi
từng đọc các bài viết về ông Đỗ Minh Phú. Vì vậy tôi xin hỏi: theo ông
nợ xấu xuất phát chủ yếu từ đâu? Cách giải quyết nợ xấu hiện tại? Và
tương lai ông định hướng nợ xấu đạt chuẩn bao nhiêu % trên thực tế vốn
kinh doanh - vốn tự có của một ngân hàng là đạt?
Ông Đỗ Minh Phú:
Nợ
xấu, theo tôi, trước hết cần đánh giá nguyên nhân khách quan của nó. Kể
từ khi lạm phát và suy giảm kinh tế trên thế giới từ 2007 ngày càng lan
rộng, đến năm 2011, hầu hết nền kinh tế toàn cầu đang ở trong giai đoạn
suy giảm.
Nhiều nơi bước vào quá trình giảm phát, điều đó cũng
tác động đến nền kinh tế nước ta. Có thể nhìn thấy rõ, năm 2011 đã có
những sự rõ ràng về việc nhiều doanh nghiệp khó khăn trong việc tiêu
thụ, tồn kho tăng cao.
Bước vào 2012, tình hình càng trở nên
trầm trọng. Có khá nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, nhiều doanh
nghiệp đóng cửa do sức hấp thụ của thị trường ngày càng yếu, thị trường
bất động sản trầm lắng, khả năng trả nợ cho ngân hàng khá yếu. Những
nguyên nhân khách quan này đã tác động và gây ra tình hình nợ xấu.
Nhưng
đánh giá nguyên nhân chủ quan, có thể nói các doanh nghiệp Việt Nam có
sức đề kháng yếu khi tình hình kinh tế thay đổi. Do quản trị yếu, hàng
hóa thiếu cạnh tranh nên tự doanh nghiệp không thể duy trì được sức tiêu
thụ tốt đối với hàng hóa của mình. Có rất nhiều doanh nghiệp không trả
được các khoản vay ngân hàng.
Vài năm trở lại đây, mức tăng
trưởng tín dụng khá cao, thậm chí có năm tăng trưởng tín dụng đạt tới
xấp xủ 30%, các doanh nghiệp sử dụng vốn khá dễ dãi, không hiệu quả. Đặc
biệt, đối với lĩnh vực bất động sản trầm lắng đóng băng, một lượng vốn
khổng lồ đã bị chôn vào các dự án. Có những giai đoạn lãi suất ngân hàng
cho vay ở mức quá cao, doanh nghiệp không thể tiếp cận được với những
nguồn vốn có chi phí lớn như vậy. Vì vậy, khả năng hấp thụ vốn của thị
trường rất kém.
Khi các doanh nghiệp không trả được nợ, hệ số tín
nhiệm đối với họ bị đánh tụt nên các ngân hàng tỏ ra ngần ngại khi tiếp
tục bơm vốn. Dòng xoáy này làm cho doanh nghiệp gần như “thúc thủ”.
Ông
Đỗ Minh Phú (bên trái), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vàng bạc đá
quý Doji, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Tiên Phong (TienPhong
Bank).
Theo quy định của ngân hàng, với những khoản nợ vay
quá 90 ngày và khả năng trả nợ cả gốc cả lãi bị nghi ngờ thì bị xếp vào
loại nợ xấu. Lượng tồn kho lớn, doanh nghiệp không bán được hàng, không
thu được tiền để trả các khoản nợ cũ và sẽ bị xếp vào nhóm nợ xấu theo
tiêu chuẩn như trên.
Có thể nhìn thấy rõ, khi chủ trương kiềm
chế lạm phát với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thắt chặt chi tiêu công
thì mức tăng trưởng sẽ bị sụt giảm. Cả hai quý đầu năm 2012, tăng
trưởng mới chỉ đạt 4,38%. Đây là sự “đánh đổi” cho mục tiêu kiềm chế lạm
phát ở dưới mức hai con số.
Các nguyên nhân nói trên cộng với
khả năng thích ứng, đối phó yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trước tình
hình nền kinh tế trong giai đoạn suy giảm đã làm cho tình hình nợ xấu
càng trở nên trầm trọng hơn.
Nợ xấu là một mối lo đáng ngại nhất
của tất cả các ngân hàng. Người ta coi đó là “cục máu đông” rất nguy
hiểm của huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, các ngân hàng đều rất sợ
khi nợ xấu tăng cao và luôn phải duy trì ở mức thấp bằng biện pháp trích
lập dự phòng rủi ro. Theo số liệu chính thức của Ngân hàng Nhà nước
công bố ngày 7/7/2012, mức nợ xấu của toàn ngành là 4,47%, tương ứng 108
nghìn tỷ đồng.
Tuan Anh - Nam 32 tuổi - Banker:
Xin hỏi riêng sự kiện mới đây của TienPhong Bank, vì sao ông Nguyễn Hưng từ VPBank về làm Tổng giám đốc TienPhong Bank?
Ông Đỗ Minh Phú:
Kể
từ tháng 12/2011, chiếc ghế Tổng giám đốc của ngân hàng Tiên Phong đã
bị bỏ trống. Một trong những nhiệm vụ của Hội đồng Quản trị ngân hàng
Tiên Phong là nhanh chóng tìm kiếm được Tổng giám đốc.
Anh
Nguyễn Hưng là một chuyên gia ngân hàng có tên 22 năm kinh nghiệm, đặc
biệt là tích lũy rất nhiều kinh nghiệm, khả năng thích hợp đối với ngân
hàng trong quá trình tái cơ cấu.
Trước đây, anh Hưng đã là Tổng
giám đốc VPbank thời kỳ từ 2009 đến 30/6/2012. Trong thời gian này, anh
Hưng đã đưa VPBank trở thành ngân hàng tương đối mạnh trong nhóm các
ngân hàng thương mại cổ phần.
Khi kết thúc nhiệm kỳ của mình, anh Hưng đã chấp thuận lời mời của chúng tôi ngồi vào chiếc “ghế nóng”.
Đặng Xuân Khuyến - Nam 52 tuổi - Quản lý:
Các
nước có nền kinh tế thị trường cả trăm năm nay khi kinh tế suy giảm như
chúng ta hiện nay cũng không dễ dàng phục hồi nhanh. Chúng ta làm thế
nào để phát huy ưu thế của hệ thống chính trị hiện tại, mau chóng hồi
phục và phát triển?
Ông Lê Đăng Doanh:
Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2007 - 2008 và cuộc khủng hoảng nợ công ở
châu Âu hiện nay cho thấy những khuyết tất và lỗ hổng rất lớn trong quản
lý của Nhà nước cũng như trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân
hàng. Ngân hàng thua lỗ rất lớn, nhà nước đã phải cứu trợ, nợ công của
nhà nước tăng lên, nhà nước phải tìm kiếm nguồn cứu trợ ở bên ngoài,
đồng thời giảm phúc lợi xã hội.
Tức là nhà nước đã dùng tiền của
người nghèo để cứu những ngân hàng giàu có, đấy là một thiếu sót lỗ
hổng trong quản lý nhà nước cũng như trong quản lý ngân hàng. Các nước
hiện nay đang cố gắng tạo ra công ăn việc làm khôi phục tăng trưởng đồng
thời quản lý ngân hàng một cách có hiệu quả hơn, giảm chi tiêu lãng phí
của nhà nước.
Quá trình đó có thể diễn ra nhanh chậm khác nhau
tùy theo hiệu quả của các biện pháp cải cách, đôi khi rất đau đớn chứ
không phải dễ dàng.
Ở nước ta, do quản lý yếu kém nên ngân hàng
có một khoản nợ xấu hiện nay chưa xác định rõ, một số tập đoàn kinh tế
nhà nước thua lỗ, thất thoát như Vinashin, Vinalines. Hội nghị 3 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/2011 đã xác định phải nhìn thẳng vào
sự thật, phải phân tích khách quan nguyên nhân tình hình và đã quyết
định chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc đầu tư công,
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà
trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Nền kinh tế
nước ta vẫn có tiềm năng, nếu thực hiện có hiệu quả chủ trương trên thì
kinh tế Việt Nam có thể hồi phục. Nhanh hay chậm tùy thuộc vào quyết tâm
và hiệu quả của việc thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Trader - Nam 36 tuổi - NĐT:
Các diễn giả vui lòng cho một nhìn nhận và dự báo về thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến cuối năm 2012? Xin cảm ơn.
Ông Võ Trí Thành:
Tôi cũng đã từng xây dựng mô hình dự báo chung cho nền kinh tế, ở đây có hai điều tôi muốn chi sẻ.
Một
là, dự báo chỉ là điểm khởi đầu chứ không phải là kết thúc của một quá
trình tranh luận cho xu hướng. Quan trọng là phải nhìn nguyên nhân, lý
giải, mối quan hệ kinh tế đằng sau của dự báo.
Hai là, trong điều
kiện kinh tế rủi ro hiện nay, dự báo đang dần bị đánh mất đi tính định
hướng của sự phát triển, mà nhiều khi cũng chạy theo thời cuộc.
Ví
dụ, từ đầu năm đến nay, IMF thay đổi dự báo kinh tế thế giới đến 3 lần,
từ bi quan, chuyển sang lạc quan hơn và thời điện hiện tại thì bi quan
hơn.
Về thị trường chứng khoán Việt Nam, cuối năm ngoái, một số
dự báo VN-Index có thể đạt được khoảng 425-450 điểm vào nửa sau năm nay.
Nhưng con số này bị vượt qua nhiều trong tháng 3 tháng 4.
Ông Võ Trí Thành (bên trái), Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).
Cũng
có dự báo từ nay đến cuối năm có thể đến 425, có người dự 500 điểm.
Điều quan trong mà tôi muốn nói là các bạn phải nhìn lý giải đằng sau
con số đó, quan sát, đối chiếu với thực tế, xu thế bạn phân tích.
Điều
quan trọng nữa mà tôi muôn nói, năm nay chứng khoán sẽ có nhiều thú vị
nhưng cũng có nhiều cạm bẫy. Điều này cũng thấy rất rõ theo các đợt sóng
lên/xuống vừa qua.
Năm nay cũng đáng để tham gia, để học. Bạn
phải luôn luôn nhớ rằng phải biết điểm dừng, chốt lời, cắt lỗ, cân đối
giữ tính toán giữa thanh khoản và lợi nhuận.
Lê Văn Đại - Nam 21 tuổi - Sinh viên:
Cháu
rất vui khi được biết thông tin VnEconomy tổ chức diễn đàn trực tuyến
giữa các chuyên gia với bạn đọc. Qua đây cho cháu hỏi chung cho các diễn
giả tham gia giao lưu như sau:
Được
biết rằng trong 6 tháng đầu năm nay tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta
đã có những chuyển biến theo hướng tích cực: lạm phát có xu hướng giảm,
điều này tạo cơ sở cho việc Ngân hàng Nhà nước hạ các loại suất, nền
kinh tế vẫn có sự tăng trưởng khá trong điều kiện hết sức khó khăn. Tuy
nhiên, vấn đề mà cháu muốn đề cập tới ở đây là thách thức hiện hữu trong
thời gian gần đây là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng hiện nay đang ở
mức cao khiến cho việc tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp gặp khó khăn,
điều này làm cho việc hạ lãi suất không có được hiệu quả như mong muốn.
Có ý kiến cho rằng Nhà nước sẽ dùng ngân sách nhà nước để thành lập quỹ
nhằm xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, giải pháp này áp dụng liệu
có khả thi không? Điều này có tạo ra tiền lệ trong việc xử lý nợ xấu
ngân hàng trong tương lai không? Hoặc hiện nay có giải pháp nào mà thế
giới đã từng áp dụng khả thi đối với Việt Nam không ạ? Cháu xin chân
thành cám ơn!
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Đề
án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam được công bố bằng quyết định
254 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp để xử lý nợ xấu
ngân hàng. Có thể nói mọi kinh nghiệm Quốc tế về xử lý nợ đều được bao
hàm trong này. Điều này tạo cơ sở để Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện
nhiều phương án xử lý khác nhau nhưng nó lại không cho ta biết thứ tự
ưu tiên rõ ràng. Nếu tổng hợp lại thì ta có thể thấy được 2 hướng xử lý
nợ xấu: dựa vào thị trường và dựa vào Nhà nước.
Giải pháp dựa vào
thị trường bao gồm: sáp nhập ngân hàng trên cơ sở tự nguyện, giảm và
mua bán lại nợ xấu theo cơ chế thị trường, chứng khoán hoá và hoán đổi
nợ và xử dụng công ty tái cơ cấu nợ tư nhân.Do thiếu vắng khung pháp lý
và đứng trước thực tế là dư nợ tăng lên liên tục trong thời gian qua nên
hướng đi này, mặc dù được nhấn mạnh vào cuối năm ngoái nhưng đã không
phát huy tác dụng trong thời gian qua.
Giải pháp dựa vào Nhà nước đòi
hỏi Nhà nước đóng một vai trò chủ động và sử dụng nguồn lực công để xử
lý nợ xấu. Đặc biệt khi vấn đề này ngày càng trở nên mang tính có hệ
thống. Việc Ngân hàng Nhà nước gần đây đề xuất thành lập công ty quản lý
tài sản là ví dụ minh chứng. Tuy nhiên, việc sử dụng giải pháp của khu
vực Nhà nước đặt ra một tình thế nan giải, nếu không có sự can thiệp của
Nhà nước thì nợ xấu không thể giải quyết nhanh. Nhưng nếu sử dụng thì
sẽ phải tiêu tốn một phần nguồn tiền của ngân sách.
Kinh nghiệm
giải quyết khủng hoảng của thế giới cho thấy, việc sử dụng nguồn lực của
Nhà nước là cần thiết bởi vì nếu không thiệt hại đối với nền kinh tế
của một hệ thống tài chính bị nợ xấu đè nặng sẽ lớn hơn rất nhiều.
Quan
điểm của tôi, nguồn lực Nhà nước được dông để mua lại nợ xấu nhưng với
một mức giá chiết khấu phản ánh đúng khoản nợ này. Trong khủng hoảng tài
chính châu Á, Hàn Quốc và Malaysia mua lại khoản nợ xấu với giá trị
bình quân là 45%. Đối với những tổ chức tín dụng mà tỷ lệ nợ xấu quá cao
và đã được đánh là mất khả năng chi trả thì không nên mua lại nợ xấu mà
Nhà nước nên tiếp quản các tổ chức tín dụng này, dọn dẹp sạch sẽ rồi
bán lại cho nhà đầu tư mới.
Chỉ sau khi Nhà nước đã thu hồi
khoản tiền bỏ ra mà còn dư thì mới trả lại cho các cổ đông ngân hàng ban
đầu. cách làm này đảm bảo nguồn lực Nhà nước được sử dụng thực sự để
tái cấu trúc tài chính và chủ ngân hàng phải là người đầu tiên đứng ra
gánh chịu những mất mát do chính ngân hàng mình gây ra.
Lê Văn Vinh - Nam 51 tuổi - Doanh nghiệp:
1-
Có nhiều ý kiến cho rằng không thể lấy tiền thuế của dân để xử lý nợ
xấu cho ngân hàng. Theo nhận định của các ông nếu buộc các ngân hàng
phải tự xử lý nợ xấu bằng nguồn trích lập dự phòng rủi ro thì nguồn
trích lập này của các ngân hàng có đủ không, nếu không đủ thì điều gì sẽ
xảy ra và ai là những người phải gánh chịu nhiều nhất?
2-
Có ý kiến cho rằng nếu thành lập công ty mua bán nợ mà nhà nước bỏ tiền
ra thành lập hoặc nắm cổ phần chi phối thì sẽ có sự can thiệp của các
nhóm lợi ích mà phần thiệt thòi lại là nhà nước? Trong trường hợp bắt
buộc phải thành lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu nếu nhà nước tham
gia 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối thì làm thế nào để các nhóm lợi
ích không chi phối hoạt động của công ty này?
Ông Trương Đình Tuyển:
Đúng
là nợ xấu thì phải xử lý, bởi nếu không xử lý thì tiền tệ trong nền
kinh tế không thể lưu thông, do đó không có tăng trưởng kinh tế. Nhưng
xử lý như thế nào, nguồn lực từ đâu vẫn còn là vấn đề có nhiều ý kiến.
Ở
Nhật, khi bong bóng bất đọng sản vỡ vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu
90 của thế ký trước dẫn đến nợ xấu chiếm đén 9% tổng dư nợ đã diễn ra
một cuộc tranh luận dai dẳng, không thể lấy tiền thuế của dân để xử lý
nợ xấu.
Chính sự tranh luận này đã kéo dài thời gian xử lý nợ
xấu ở Nhật, gây tác động dai dẳng đến nền kinh tế. nói như vậy để thấy
rằng, không chỉ Việt Nam mới có ý kiến không thể lấy tiền thuế của dân
để giải quyết nợ xấu mà các nước khác cũng như vậy. Cuối cùng Chính phủ
Nhật cũng phải bỏ ra 120 nghìn tỷ Yên để giải quyết nợ xấu và sau đó họ
thu hồi được 122 nghìn tỷ Yên. Như vậy, nếu có dùng ngân sách thì đây
cũng chỉ là một khoản vay. Tuy nhiên, không phải lúc nào và ở đâu cũng
có thể thu hồi đủ các khoản tiền mà ngân sách bỏ ra để giải quyết nợ
xấu.
Theo quan điểm của tôi, nợ xấu ở Việt Nam tăng là do các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Chính phủ quản lý lỏng lẻo.
Thứ
hai: Các tổ chức tín dụng tham lam (mở rộng cho vay, tăng tín dụng để
tăng lợi nhuận, có nhiều khoản vay không đảm bảo thu hồi chắc chắn); các
doanh nghiệp không có phương án sản xuất, kinh doanh tốt để có khả năng
đảm bảo trả nợ (trong đó có nhiều khoản đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước kém hiệu quả, không trả được nợ).
Thứ ba là do cơ chế giám
sát thiếu chặt chẽ để nợ xấu phát sinh lớn mà không có giải pháp ngăn
chặn sớm. Từ ba nguyên nhân đấy thì 3 chủ thể phải chịu trách nhiệm: Nhà
nước, doanh nghiệp và ngân hàng.
Trước hết nói về ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng phải trích lập đủ các khoản dự phòng rủi ro để xử lý phần nợ xấu.
Doanh
nghiệp phải dùng tài sản thế chấp để trả nợ cho ngân hàng, như vậy họ
cũng bị thiệt. Vì giá tài sản thế chấp đã xuống thấp.
Theo báo
cáo của Ngân hàng Nhà nước, có đến 86% các khoản vay là có tài sản bảo
đảm và giá trị tài sản bằng 135% giá trị nợ xấu. Như vậy, nếu dùng quỹ
dự phòng rủi ro và xử lý số tài sản bảo đảm này thì hoàn toàn có thể xử
lý số nợ xấu mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng chiếm 10% dư nợ.
Vấn đề còn lại là phải có những định chế đặc biệt để xử lý vấn đề này.
Định
chế này có thể là công ty mua bán nợ. Sau khi dùng tài sản quỹ dự
phòng rủi ro để xử lý bớt nợ xấu thì các ngân hàng tùy vào mức nợ xấu
của mình phải góp góp để hình thành công ty này. Số vốn này không phải
là cổ phần của ngân hàng góp vốn (anh phải góp vốn nhưng không được biểu
quyết trên phần vốn góp để tránh lợi ích chi phối).
Phải có
những định chế hỗ trợ, ví dụ như công ty định giá nợ xấu, định giá tài
sản và có những thị trường thứ cấp để những khoản nợ này được mua bán
trên thị trường.
Vì vậy, điều cần thiết là Chính phủ phải có những nghị định đặc biệt về xử lý nợ xấu làm cơ sở pháp lý cho công ty này vận hành.
Khánh Hòa - Nữ 35 tuổi - NVVP:
Tôi
có một câu hỏi dành cho ông Phú. Thưa ông, tỉ lệ nợ xấu của
TienPhongBank chiếm bao nhiêu %, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực gì. Khi
đầu tư vào TienPhongBank, ông có kỳ vọng để ngân hàng này trở thành
Thương hiệu mạnh trong lĩnh vực ngân hàng?
Ông Đỗ Minh Phú:
Tỷ
lệ nợ xấu của Tiên Phong thời điểm đến 30/6/2012 là dưới 6%. Đây vẫn là
một mức nợ xấu cao mà chúng tôi phải phấn đấu kéo xuống. Mục tiêu đến
cuối năm 2012 là từ 4-4,8%.
Mức nợ xấu này nằm chủ yếu ở hai
nhóm: (1) Các doanh nghiệp kinh doanh ở mặt hàng sắt thép, (2) các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng hiện nay không tiêu thụ được
hàng hóa. Ở Tiên Phong, tỷ lệ nợ xấu đối với nhóm bất động sản không
cao.
Khi đầu tư vào Tiên Phong, chúng tôi đã xây dựng mục tiêu
cho tới 2015, Tiên Phong phải trở thành một ngân hàng kinh doanh có hiệu
quả nhất, an toàn nhất.
Phương Thảo - Nữ 34 tuổi - Giám đốc truyền thông:
Gần
đây, có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề giảm phát, mặc dù nhiều quan
chức Chính phủ đã phủ nhận điều này. Quan điểm của các chuyên gia về vấn
đề này thế nào? Chính phủ đã thừa nhận khó đạt mục tiêu tăng trưởng
theo kế hoạch trong năm 2012. Cá nhân các ông dự báo tăng trưởng của
Việt Nam sẽ đạt bao nhiêu phân trăm trong năm nay và xu hướng tăng
trưởng trong các năm tới ra sao?
Ông Võ Trí Thành:
Theo tôi, hiện nay, phương tiện thông tin đại chúng sử dụng thuật ngữ biến động giá cả chưa thật chuẩn.
Lạm
phát là mức giá cả chung tăng, giảm phát là mức giá cả giảm. Thiểu phát
là mức giá cả vẫn tăng nhưng mà tăng rất là thấp (nền kinh tế mới nổi
như Việt Nam mà lạm phát khoảng 1-2% thì có thể tạm coi là thiểu phát).
Để
đánh giá một nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát hay lạm phát hay
không thì thường nhìn vào thời kỳ đủ dài, không có lý luận chính xác
nào ở đây, thường thường một vài quý. Nếu nhìn dưới góc độ như vậy, thì
khó có thể nói Việt Nam rơi vào thiểu phát hay giảm phát.
Nếu
nhìn lạm phát so với cùng kỳ vẫn là 6,9% và nhiều dự báo cho rằng cả năm
có thể, nếu thấp cũng 5-6%, nếu cao cũng 6-7%. Tuy nhiên, kinh tế Việt
có thể có rủi ro rơi vào thiểu phát nếu kinh tế, kinh doanh tiếp tục
đình trệ, nếu tổng cầu tiếp tục giảm. Và nếu điều đó được hỗ trợ bởi sự
sụt giảm của kinh tế thế giới thì khi đó trong dài hạn có thể rơi xuống
tình trạng thiểu phát hoặc giảm phát.
Về dự báo tăng trưởng, gần
đây đa số dự báo đều cho tăng trưởng kinh tế năm nay chỉ khoảng 5-5,5%.
Cũng có dự báo năm nay chỉ đạt quanh 4,5%.
Cá nhân tôi dự báo muốn mức hợp lý có thể đạt được là 5,1-5,2%.
Chúng
ta cần ổn định, cần thay đổi cách thức tăng trưởng hiệu quả hơn. Trong
các năm tới (chưa kể biến động kinh tế thế giới) thì mức tăng trưởng
tăng lên dần dần và mục tiêu đặt ra cho vài năm tới khoảng 6% hoặc trên
6% cho một hai năm tới.
Điều này sẽ làm nền tốt hơn cho giai đoạn tăng trưởng các năm tiếp theo.
Ông Trương Đình Tuyển:
Đúng
là tốc độ tăng CPI đã giảm nhiều trong 6 tháng đầu năm, trong đó CPI
tháng 6/2012 đã giảm 0,26% nhưng để nói là nước ta đang rơi vào tình
trạng giảm phát là không có cơ sở và cần phải theo dõi thêm. Vì, CPI
tháng 6 vẫn tăng 2,52% so với tháng 12 năm ngoái, nếu so với tháng 6 năm
ngoái vẫn tăng 6,29%. Nếu so tiếp với mức tăng bình quân cùng kỳ thì
vẫn trên 12%.
Tuy nhiên, tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm cũng đã
kèm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Theo dự báo của nhiều chuyên
gia, trong đó có cá nhân tôi, thì tăng trưởng kinh tế năm nay không thể
nào đạt được 6% (mức thấp theo chỉ tiêu Quốc hội đã phê chuẩn từ 6 –
6,5%). Dự báo tăng trưởng GDP năm nay chỉ có thể đạt từ 5,3 – 5,7%. Nếu
như giải ngân hết nguồn vốn đầu tư từ ngân sách theo kế hoạch của năm
thì nền kinh tế có thể tăng trưởng 5,3% (Chính phủ đang chỉ đạo quyết
liệt để thực hiện được yêu cầu này).
Khi giải ngân nguồn vốn nêu
trên, sẽ tạo ra một tác động lan tỏa trong kinh doanh và đầu tư của các
thành phần kinh tế khác. Tác động lan tỏa đến mức nào còn phụ thuộc vào
nguồn tín dụng vì đây là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của khu vực
doanh nghiệp, nếu điều kiện tiếp cận tín dụng tốt, với lãi suất thấp thì
tác động lan tỏa sẽ cao và có thể đạt tăng trưởng GDP 5,7%. Nhưng nếu
lãi suất tín dụng vẫn cao, doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận thì tăng trưởng
vẫn thấp.
Trong hội nghị sơ kết 6 tháng, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã chỉ đạo quyết liệt hạ lãi suất cho vay, và chúng ta hy vọng chỉ
đạo đó sẽ trở thành sự thực trên thị trường tiền tệ.
Nguyễn Đức Minh - Nam 35 tuổi - Kỹ sư XD:
Thưa
các chuyên gia. Với tình hình nợ xấu ngân hàng trên dưới 10% tài sản
hiện nay, Chính phủ đã có đề xuất sáp nhập, tái cơ cấu, rồi thành lập
công ty mua bán nợ. Nhìn chung là giải pháp đã có, nhưng tiến trình hình
như còn quá chậm và vướng mắc nhóm lợi ích gì đó. Theo các chuyên gia
tại sao chúng ta không để cho một số ngân hàng quá yếu kém “chết” hẳn mà
phải sáp nhập? Có cách nào để các ngân hàng này chết mà không ảnh hưởng
lớn đến toàn hệ thống ngân hàng? Và việc thành lập Tổng công ty mua bán
nợ là điều tốt nhưng liệu đây có phải là "siêu tổng công ty" kiểu
Vinashin, Vinalines hay EVN không? Trong khi chúng ta đang kêu gọi giảm
bớt các tổng công ty này?
Ông Võ Trí Thành:
Tôi
phải đính chính một chút, hiện nay có một số con số khác nhau. Con số
bây giờ tăng trên 3% cuối năm ngoái lên 4% hiện nay là con số tổng hợp
của các ngân hàng thương mại. Con số trên 10% (tổng dư nợ tín dụng) theo
đánh giá của Ngân hàng Nhà nước. Còn tổ chức nước ngoài cho rằng con số
còn cao hơn, khoảng 13-145.
Hiện nay, điều tương đối đồng thuận
là cần tập trùng xử lý nợ xấu vì nó đang tăng nhanh và rất là nhiêm
trọng. Tuy nhiên, việc thành lập công ty mua bán nợ mà Ngân hàng Nhà
nước đề xuất, mới chỉ là đề xuất. Còn phải được thảo luận và hiện nay
trên báo chí còn nhiều tranh cãi liên quan đến công ty này.
Những
điều tranh cãi này liên quan đến vị trí, "quyền lực" cách thức huy động
nguồn lực, cách thức mua bán nợ xấu và nhiều vấn đề kỹ thuật khác. Cá
nhân tôi hy vọng, chúng ta có thể đi đến sự đồng thuận để xử lý nhanh nợ
xấu lớn này.
Và dù thế nào thì các hình thức xử lý phải đảm bảo các nguyên tắc:
Một
là, định chế mà để xử lý nợ xấu này phải có đủ nguồn lực (tối thiểu hóa
được chi phí nhà nước bỏ ra và cơ chế xử lý đủ mạnh).
Hai là, nó phải có nhóm chuyên gia đủ năng lực độc lập và có cái nhìn tổng thể để hỗ trợ.
Ba là, có cơ chế giám sát đặc biệt, minh bạch và tính giải trình cao.
Bốn là, đảm bảo tạo dựng được thị trường mua bán nợ đủ thanh khoản.
Ông Trương Đình Tuyển:
Theo
quan điểm của tôi, Chính phủ phải bảo đảm người gửi tiền không bị mất
tiền, còn những cổ đông hình thành ngân hàng do quản lý yếu kém phải mất
vốn nhưng không để hệ thông ngân hàng phải sụp đổ và như vậy, nếu một
ngân hàng bị phá sản sẽ dẫn đến phản ứng dây chuyền có nguy cơ đổ vỡ hệ
thống.
Vì vậy, vấn đề ở đây là những người góp vốn lập ngân hàng
thì phải mất vốn, nhưng ngân hàng thì vẫn phải duy trì hoạt động. thông
qua hình thức mua bán hoặc sáp nhập giữa các ngân hàng, thậm chí Chính
phủ phải chuyển thành sở hữu của Chính phủ. Khi ngân hàng hoạt động bình
thường trở lại, Chính phủ cổ phần hóa ngân hàng này và thu hồi vốn.
Khi xảy ra khủng hoảng tài chính 2008, nhiều nước đã áp dụng biện pháp này.
Về công ty xử lý nợ thì tôi đã trả trả lời ở câu hỏi trước đó.
Minh Quân - Nam 25 tuổi - Nhan vien kinh doanh:
Ngân
hàng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tình trạng nợ xấu
hiện nay cũng có nguyên nhân phần lớn từ ngân hàng. Nhân buổi giao lưu
trực tuyến hôm nay, tôi xin hỏi: Nền kinh tế đang trong quá trình tái cơ
cấu, doanh nghiệp phá sản đã nhiều nhưng vẫn chưa thấy dấu hiệu phục
hồi của nền kinh tế. Trong khi ngân hàng phá sản thì chưa thấy đâu. Phải
chăng chúng ta cơ cấu chưa đúng chỗ, chưa toàn diện, chưa đủ mạnh? Xin
cám ơn.
Ông Lê Đăng Doanh:
Ngân
hàng có chức năng như một quả tim bơm máu cho cơ thể bằng cách huy động
tiền nhàn dỗi và cho vay vào những dự án và doanh nghiệp có hiệu quả.
Có những ngân hàng hoạt động nghiêm túc có lãi và chỉ có ít nợ xấu nhưng
cũng có ngân hàng cho vay thiếu thận trọng, nợ xấu rất cao. Hiện nay,
tiêu chuẩn xác định nợ xấu của Việt Nam vẫn khác so với tiêu chuẩn nợ
xấu của thế giới và đang có nhiều con số khác nhau về tỷ lệ nợ xấu.
Tất cả các ngân hàng đang được cơ cấu lại, một số ngân hàng nhỏ đã được sáp nhập, quá trình này đang tiếp diễn.
Doanh
nghiệp phá sản ngừng hoạt động hàng loạt, trong 6 tháng đầu năm đã có
trên 26.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động do chi phí đầu vào tăng cao,
sức mua giảm, xuất khẩu khó khăn, mức tồn kho tăng. Trong số những doanh
nghiệp ngưng hoạt động có những doanh nghiệp đầu tư sai, đã dựa quá
nhiều vào nguồn vốn tín dụng khi lãi suất còn thấp nhưng khi lãi suất
tăng cao thì những doanh nghiệp đó không thể trả được nợ. Những doanh
nghiệp đó phải trả giá.
Có không ít những doanh nghiệp đã bị
“chết oan”, họ có công nghệ tốt, có quản trị tốt, nguồn nhân lực có chất
lượng có hợp đồng, có khách hàng nhưng gần đây do chi phí đầu vào tăng
cao và sức mua giảm sút nên họ đã gặp khó khăn, những doanh nghiệp này
cần được phân loại theo những tiêu chí và đánh giá khách quan để được
trợ giúp khôi phục và tiếp tục hoạt động. Các doanh nghiệp này cũng đều
phải tái cấu trúc để nâng cao hiệu quả và phù hợp với những thay đổi
trên thị trường thế giới và trong nước.
Vũ Công Hai - Nam 23 tuổi - Sinh viên:
Thưa
các chuyên gia, theo tôi được biết thì các khâu giải phóng ngồn vốn vẫn
bị ách tắc do nợ xấu và niềm tin kém giữa người đi vay và người cho
vay. Vừa qua thì Chính phủ đã có một số dự định giải quyết nhanh và dứt
điểm nợ xấu ngân hàng để khai thông dòng vốn. Có nghĩa là chính sách thả
lỏng tín dụng đến bây giờ mới đi vào thực tiễn, nếu vậy thì bao lâu nữa
nó mới có kết quả và ảnh hưởng đên tốc độ tăng GDP, bao lâu nữa hàng
hoá tồn kho doanh nghiệp mới giảm? Theo các chuyên gia thì có nên đưa ra
một gói kích cầu trong ngắn hạn để giải phóng hàng tồn kho cho doanh
nghiệp trong thời gian chờ đợi những tác động của việc khơi thông dòng
vốn? Chúng ta chỉ còn 6 tháng nữa là hết năm, nếu chỉ trông chờ vào việc
khơi thông dòng vốn liệu đã quá muộn để đẩy tốc độ tăng trưởng cho kịp
với mục tiêu hay chưa?
Ông Lê Đăng Doanh:
Trong
nền kinh tế nước ta hiện nay, nợ xấu được coi là “cục máu đông” ngăn
cản dòng vốn từ ngân hàng có thể chảy sang các doanh nghiệp. Chính vì
vậy, cho nên lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều nhưng nhiều doanh nghiệp
vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn lãi suất thấp.
Để giải quyết nợ
xấu cần xác định rõ khối lượng nợ xấu, cơ cấu nợ xấu, xác định các giải
pháp xử lý nợ xấu. Trên thế giới, để xử lý nợ xấu, chính phủ một số
nước đã phải chi tiêu một khối lượng tiền khổng lồ, nợ công tăng vọt,
nước đó phải đi cầu viện viện trợ của nước ngoài.
Việt Nam hiện
nay chưa có phương án xử lý nợ xấu một cách toàn diện, đầy đủ, chưa xác
định số vốn cần thiết để xử lý nợ xấu và cũng chưa thống nhất được cách
xử lý, (xóa nợ, giãn nợ, mua lại nợ xấu…), vì vậy, chưa thể xác định
được khoảng thời gian cần thiết để giải quyết vấn đề nợ xấu này.
Trong
tình hình kinh tế thế giới đang suy giảm, nhu cầu tiêu dùng giảm sút,
niềm tin của nhà đầu tư cũng bị giảm sút nên Việt Nam cũng không thể quá
lạc quan để đạt mức tăng trưởng cao. Năm 2011, chúng ta đã đạt được
những kết quả khác xa so với chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng và lạm
phát. Rất có thể năm 2012 mặc dầu có những nỗ lực rất lớn, mục tiêu tăng
trưởng sẽ khó có thể đạt được.
Đỗ Thu Huong - Nữ 31 tuổi - Công chức:
Gần
đây, Ngân hàng Nhà nước có dự tính lập công ty mua bán nợ quốc gia để
xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, quan điểm của các ông về vấn đề
này thế nào?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Việc
thành lập công ty mua bán nợ quốc gia trực thuộc Ngân hàng Nhà nước đòi
hỏi phải xác định rõ mục tiêu hoạt động và nguồn lực cho tổ chức này.
Về mục tiêu hoạt động, công ty y mua bán nợ phải đặt mục tiêu là mua nợ
xấu để bán lại, thu hồi trong thời gian ngắn nhất thay vì mua lại rồi
gia hạn nợ.
Thứ hai, chỉ mua nợ xấu của các tổ chức chưa lâm vào
tình trạng mất khả năng chi trả. Và sau khi mua nợ xấu thì các tổ chức
tín dụng có thể trở lại hoạt động tài chính bình thường.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách công - Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright (ông Thành sẽ tham gia diễn đàn trực tuyến từ Tp.HCM).
Thứ ba,
nợ xấu phải được mua ở mức giá chiết khấu. Một bài học kinh nghiệm là
công ty mua bán nợ của Indonesia vào cuối thập niêm 90 dưới sức ép tài
chính đã mua lại gần như ngang giá của các công ty có quan hệ và do vậy
nợ xấu không được xử lý, mà nguồn lực nhà nước thì bị thất thoát.
Sau cùng, nguồn lực cho công ty mua bán nợ phải là nguồn vốn ngân sách thật thay vì dùng tiền phát hành.
Nguyễn Anh Vũ - Nam 31 tuổi - NĐT:
Kinh
tế khó khăn kéo dài có khi lại làm nảy sinh những cơ hội hiếm có. Ông
Phú nói gì khi có nhận định rằng môi trường đã làm nảy sinh cơ hội để
DOJI đầu tư vào TienPhong Bank thuận lợi hơn, chi phí tốt hơn?
Ông Đỗ Minh Phú:
Nhìn
lại quá trình phát triển của mình, khi nền kinh tế bước vào khủng hoảng
đều gắn liền với những mốc đột phá của Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI.
Năm
1997, khi khủng hoảng tài chính nổ ra, chúng tôi bắt đầu xây dựng công
ty Diana, đến nay đã trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản
xuất các sản phẩm băng vệ sinh và tã trẻ em.
Năm 2007, nền kinh
tế toàn cầu bị che phủ bởi những đám mây u ám của thị trường tài chính ở
Mỹ và châu Âu, thì DOJI tái cấu trúc, mua thêm phần vốn của các cổ đông
của hai doanh nghiệp vàng bạc đá quý SJC Hà Nội và SJC Đà Nẵng, đưa hai
doanh nghiệp này trở thành thành viên của Tập đoàn và đến nay DOJI đã
đạt mức doanh thu 30 nghìn tỷ đồng năm 2011 và là doanh nghiệp hàng đầu
trong lĩnh vực vàng bạc đá quý.
Năm 2011, nền kinh tế toàn cầu
vẫn đối mặt với những khó khăn, Việt Nam bước vào giai đoạn lạm phát
tăng cao, thị trường tiêu thụ hàng hóa giảm sút, hàng loạt doanh nghiệp
đóng cửa và phá sản thì DOJI tiến hành bước tái cấu trúc M&A, bán
lại hầu hết cổ phần của công ty Diana cho công ty nước ngoài, mua lại
phần vốn tham gia vào ngân hàng Tiên Phong để trở thành cổ đông chiến
lược, cổ đông lớn của ngân hàng này.
Lê Viết Nam - Nam 28 tuổi:
Gửi
ông Đỗ Minh Phú, là doanh nhân, ông có bị quan hay lạc quan với tình
hình kinh tế, với hoạt động kinh doanh của mình hiện nay?
Ông Đỗ Minh Phú:
Đối
với chúng tôi, khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn, thường thì
chúng tôi sẽ không rơi vào khuynh hướng bi quan tiêu cực hay lạc quan
quá mức. Hiện tại, chúng tôi nhìn thấy những khó khăn, bất ổn của nền
kinh tế, dấu hiệu giảm phát là rất rõ, tăng trưởng chậm, nợ xấu cao… sẽ
cản trở quá trình phát triển tăng tốc của tất cả các doanh nghiệp, trong
đó có chúng tôi.
Tuy nhiên, đã có những tín hiệu tích cực của
nền kinh tế. Tăng trưởng quý 2 đã cao hơn so với quý 1. Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước đã quyết tâm đưa ra những giải pháp hữu hiệu để đưa
nền kinh tế ra khỏi bối cảnh khó khăn hiện nay.
Cá nhân tôi tin
rằng, tình trạng khó khăn này sẽ sớm đi qua trong năm 2013. Bởi điều
quan trọng nhất đối với một nền kinh tế mới phát triển, còn tồn tại
nhiều yếu kém, dễ bị tổn thương như Việt Nam thì mục tiêu kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng hơn cả. Sẽ phải chấp nhận tăng
trưởng chậm, khó khăn nhất thời.
Lan Trần - Nữ 27 tuổi - Kinh doanh:
Số
nợ xấu toàn ngành ngân hàng hết tháng 5 theo báo cáo của các ngân hàng
chiếm 4,47%, khoảng trên 116.900 tỷ đồng (đã chi 67.000 tỷ đồng để trích
lập dự phòng). Còn nếu theo con số của Thống đốc Bình công bố là 10%
tổng dư nợ, số này có thể vượt 206.000 tỷ đồng. Nếu trích lập theo tỷ lệ
trên, phần dùng trích lập có thể 120.000 tỷ đồng, vô hình trung có thể
ăn sạch lợi nhuận của các ngân hàng. Các chuyên gia đánh giá như thế nào
về điều này? Quý 1, 2 lợi nhuận các ngân hàng đều giảm, có vị bảo giảm
20-30%, nhận định của các ông như thế nào?
Ông Lê Đăng Doanh:
Tiêu
chuẩn nợ xấu của Việt Nam chưa thống nhất với tiêu chuẩn nợ xấu của thế
giới. Tỷ lệ nợ xấu mà các công ty xếp hạng tín dụng quốc tế đưa ra cao
hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu mà chúng ta tự xác định, thí dụ Fitch đã
đưa ra tỷ lệ nợ xấu 13%. Các chuyên gia Việt Nam đưa ra tỷ lệ nợ xấu
khác nhau từ 8 - 14%.
Từ tỷ lệ nợ xấu khác nhau đó cũng cần
lượng vốn khác nhau để xử lý số nợ xấu đó. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước
đưa ra con số nợ xấu khác nhau cho nên chưa rõ là tỷ lệ nợ xấu thực là
bao nhiêu nhưng chắc chắn là không nhỏ.
Để giải quyết vấn đề nợ
xấu cần làm rõ tổng số nợ xấu, số nợ xấu trong từng ngành kinh tế (bất
động sản, chứng khoán…), trong từng ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần lập một
bộ phận xử lý nợ xấu và có phương án xử lý nợ xấu của mình.
Hiện
nay các doanh nghiệp ghen tị với mức lợi nhuận của ngân hàng. Trong
thời gian qua, do lãi suất giảm, tổng mức tín dụng trong nền kinh tế
cũng giảm, cho nên lãi suất của một số ngân hàng cũng là điều dễ hiêu.
Phương Thảo - Nữ 34 tuổi - Giám đốc truyền thông:
Gần
đây, có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề giảm phát, mặc dù nhiều quan
chức Chính phủ đã phủ nhận điều này. Quan điểm của các chuyên gia về vấn
đề này thế nào? Chính phủ đã thừa nhận khó đạt mục tiêu tăng trưởng
theo kế hoạch trong năm 2012. Cá nhân các ông dự báo tăng trưởng của
Việt Nam sẽ đạt bao nhiêu phân trăm trong năm nay và xu hướng tăng
trưởng trong các năm tới ra sao?
Ông Lê Đăng Doanh:
Chỉ
số giá tháng 6/2012 đã giảm (-) 0,26%, lần đầu tiên giảm sau 38 tháng
liên tục tăng. Chưa có thể kết luận là nền kinh tế đã rơi vào giảm phát,
để kết luận nền kinh tế đã rơi vào giảm phát thì chỉ số CPI phải âm
trong 3 tháng liên tiếp. Chúng ta còn chờ chỉ số của những tháng tới.
Chỉ
số lạm phát giảm và ở mức thấp là kết quả của nhiều nhân tố tác động.
Chính phủ đã giảm bớt mức cung tín dụng, số doanh nghiệp đình chỉ hoạt
động tăng cao, sức mua của dân cư giảm rất thấp sau nhiều năm liên tục
lạm phát, giá dầu trên thế giới giảm…
Vì vậy, chỉ số giá cả giảm
có thể là một tín hiệu tích cực về mặt kiềm chế lạm phát nhưng cũng là
một biểu hiện đáng lo ngại cho sức mua bị giảm sút nghiêm trọng. Chúng
ta đều biết, các siêu thị đã giảm giá rất mạnh, giá thịt, rau quả… cũng
giảm do nhiều lý do. Vì vậy, chỉ số CPI tháng 6 (-) 0,26% có nhiều ý
nghĩa.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam năm 2012 được
dự báo thấp hơn chỉ tiêu 6,5%. Có chuyên gia dự báo mức tăng trưởng chỉ
đạt dưới 5%. Tuy theo tình hình kinh tế thế giới và nỗ lực cải cách của
chúng ta trong 6 tháng tới tôi dự báo kinh tế Việt Nam có thể tăng
trưởng từ 5 – 5,5%.
Thời kỳ tăng trưởng dễ dàng của nền kinh tế
Việt Nam đã qua. Trên thế giới xu thế là đạt mức độ tăng trưởng bền vững
và tăng trưởng xanh (tức là tăng trưởng nhưng phải bảo vệ môi trường).
Nền kinh tế Việt Nam còn một số tiềm năng, song Việt Nam cần tái cấu
trúc lại nền kinh tế, cải cách thể chế, nâng cao chất lượng lao động để
có thể đạt mức tăng trưởng từ khoảng 5-6%.
Nguyễn Trung Kiên - Nam 27 tuổi - Tài chính ngân hàng:
Xin
bác Tuyển cho biết với những chính sách mà nhà nước đã đưa ra để cải
thiện tình hình kinh tế thì đến bao giờ nền kinh tế mới có thể xem là đi
vào "nền nếp", mọi hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động của các
ngân hàng thương mại sẽ thông suốt? Trân trọng.
Ông Trương Đình Tuyển:
Trong
những năm vừa qua, do những yếu kém trong quản lý và điều hành nền
kinh tế cùng với tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, đã dẫn đến
tình trạng bất ổn vĩ mô kéo dài.
Chu kỳ lạm phát cao (2008) suy
giảm tăng trưởng (2009) rồi trở lại lạm phát cao (2010 – 2011), suy giảm
tăng trưởng (2012) là bài học lớn trong quản lý và điều hành nền kinh
tế mà Chính phủ đã rút ra và được phân tích kỹ lưỡng trong phiên họp
Chính phủ ngày 3/7 vừa qua.
Vì vậy, chủ trương nhất quán của
Chính phủ là bằng mọi cách phải ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu phục hồi
tốc độ tăng trưởng, nhưng không vì tốc độ tăng trưởng mà đẩy lạm phát
lên cao trong năm 2013. Nếu tinh thần chỉ đạo đó được thực hiện nghiêm
túc, quyết liệt thì kinh tế Việt Nam sẽ tạo được thế ổn định trong năm
2013 và các năm tiếp theo. Đây chính là tiền đề để bảo đảm tăng trưởng
trong trung và dài hạn.
Mặt khác, phải đẩy nhanh quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà trước mắt tập trung
vào 3 nội dung: tái cơ cấu đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ
thống ngân hàng thương mại.
Nếu làm tốt các nội dung này thì kinh
tế Việt Nam sẽ đi vào quỹ đạo tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, theo nhận
xét của tôi thì tiến trình này đang diễn ra chậm chạp.
Văn Hòa - Nam 47 tuổi - Doanh nhân:
Sau
một thời gian dài chịu đựng, lãi suất đã liên tục giảm nhanh, hiện còn 9
– 12%. Các chuyên gia đánh giá thế nào về việc điều hành lãi suất trong
thời gian qua? Dự báo từ nay đến cuối năm lãi suất có giảm được nữa
không? Tăng trưởng tín dụng thì thấp như vậy, sao không thấy ai chịu
trách nhiệm về việc điều hành không đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu, để rồi
các doanh nghiệp và người dân là những đối tượng phải gánh chịu? Xin các
chuyên gia chia sẻ.
Ông Trương Đình Tuyển:
Tính
từ tháng 3 đến nay, lãi suất trần huy động đã giảm 5 điểm %, từ mức 14%
xuống còn 9% với các khoản huy động dưới 12 tháng. Mức giảm lãi suất huy
động là hợp lý so với mức tăng chỉ số giá tiêu dùng. Tuy nhiên, điều mà
doanh nghiệp mong muốn là lãi suất cho vay phải giảm.
Nếu lãi
suất huy động giảm mà lãi suất cho vay không giảm được là không đạt mục
tiêu và có thể gây ra những hệ lụy khác (người dân có thể chuyển sang
các kênh đầu tư khác như: mua vàng, ngoại tệ…). Vì vậy phải giảm cho
được lãi suất cho vay và việc này có liên quan đến xử lý nợ xấu mà tôi
đã đề cập ở câu trả lời trước.
Nguyễn Ba Ra - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Xin
hỏi các chuyên gia kinh tế, trong các báo cáo thấy số liệu cho vay bất
động sản là 348 ngàn tỷ VND. Vậy đây là con số cho vay với mục địch kinh
doanh bất động sản hay đây là con số dư nợ cho vay thế chấp bằng bất
động sản? Theo như đặc thù tín dụng Việt Nam thì 99% tài sản thế chấp
ngân hàng là bất động sản thì với tình hình hiện nay giá bất động sản
tụt dốc, kinh tế khó khăn bài toán này giải theo hướng nào cho hợp lý?
Có cần thanh tra đánh giá lại tài sản thế chấp của ngân hàng để có cái
nhìn đúng nhất về nợ xấu, người dân tin tưởng thì mới khơi thông được
dòng vốn?
Ông Võ Trí Thành:
Con
số dư nợ bất động sản chính thức khoảng 9-10% tổng dự nợ tín dụng. Tuy
nhiên có nhiều ước tính cho thấy con số có thể gấp đôi. Hiện nay theo
tôi được biết Ngân hàng Nhà nước đang tập trung đánh giá lại chuẩn xác
dư nợ bất động sản, cũng như nợ xấu bất động sản nói riêng và nợ xấu
toàn hệ thống nói chung.
Việc bất động sản đóng băng dẫn đến hai hệ lụy.
Một là, nợ xấu tăng trong hệ thống ngân hàng
Hai là, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng giảm đi do tài sản dựa vào bất động sản thế chấp.
Cách
xử lý gắn với câu chuyện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu.
Ngoài ra, cách làm là nên giúp một số phân khúc tan băng. Cách làm này
cũng hỗ trợ theo hướng làm nhẹ đôi chút trong xử lý nợ xấu.
Tuy
nhiên, chúng ta không thể cứu bất động sản theo cách tổng thể. Đằng sau
câu chuyện đó là bài học đắt giá, học mãi không thuộc của nhiều nước
trên thế giới, đó là bong bóng bất động sản và bất ổn kinh tế vĩ mô.
Điều này gây nên nhiều tai hại cho phát triển kinh tế và xã hội.
Ngo The Vien - Nam 59 tuổi - Xay dung:
Trong
nhiều năm qua phần lớn các doanh nghiệp nhà nước do đầu tư dàn trải, hệ
thống quản lý kiểm soát lỏng lẻo, vay vốn đầu tư chủ yếu từ nguồn ngân
hàng nên nợ xấu đến nay rất cao. Vậy xin hỏi các chuyên gia, nhà nước có
nên cứu những khoản nợ này? Cứu bằng cách nào?
Ông Võ Trí Thành:
Theo
tôi, chúng ta phải thừa nhận hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước
rất thấp, nhiều doanh nghiệp lớn trên bờ vực đổ vỡ. Vốn của doanh nghiệp
nhà nước có một số nguồn chính.
- Vay ngân hàng thương mại.
-
Vốn huy động của nhà nước cho vay lại hoặc bảo lãnh như trái phiếu
trong ngoài nước, ODA và chúng ta biết tổng hợp các nguồn này rất là
lớn, trong đó nhiều khoản nợ là nợ xấu.
Để xử lý điều này có nhiều vấn đề phải làm ngay.
Một là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu.
Hai
là cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và một số tập đoàn tổng công ty lớn
yếu kém. Trong cơ cấu lại có vấn đề quan hệ với chủ nợ mới và cũ và làm
sạch bảng cân đối tài sản, định hình lại chiến lược phát triển, thay
đổi quản trị và lãnh đạo doanh nghiệp.
Ba là, quan trọng hơn,
việc xử lý nợ xấu phải nằm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế,
trong đó có cơ cấu tập đoàn nhà nước. Minh bạch thông tin, giám sát, đại
diện chủ sở hữu, quản trị doanh nghiệp tốt, cổ phần hóa, cơ cấu lại
doanh nghiệp, cùng các cải cách khác.
Chỉ có thế thì vấn đề nợ xấu mới không quay trở lại.
Minh Quý - Nam 55 tuổi - Doanh nhân:
Câu
hỏi: 1) Xin các chuyên gia cho biết: Đâu là nguyên nhân gây ra: nợ xấu,
sự trầm lắng của thị trường bất động sản và đình trệ của nền kinh tế
hiện nay? 2) Qua theo dõi thông tin trên báo chí khi nói về cách xử lý
nợ xấu ở Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc..., các chuyên gia nói mỗi người một
cách rất khác nhau về cách thức. Xin cho biết chính xác các nước đó đã
làm như thế nào?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Chào bạn. Về câu hỏi 2), đúng là các nước sử dụng nhiều cách thức xử lý nợ xấu khác nhau.
Hàn
Quốc trong năm 1998 - 2003 sử dụng công ty quản lý tài sản độc lập với
tên gọi KAMCO (Korean Asset Management Corporation). Công ty này nhận 55
tỷ USD từ ngân sách để mua lại nợ xấu với giá bình quân 46%. Kết quả là
70% nợ mua về đã được bán theo phương thức đấu giá, bán lại cho các quỹ
tái cấu trúc doanh nghiệp của khu vực tư nhân và phát mãi tài sản.
Đối
với Trung Quốc, các ngân hàng thương mại quốc doanh chi phối toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Nợ xấu của các ngân hàng này sau khi tăng cao trong
thập niên 90 (dưới thời Thủ tướng Chu Dung Cơ) được xử lý bằng nguồn hỗ
trợ ngân sách trực tiếp cho các ngân hàng.
Hoa Kỳ trong cuộc
khủng hoảng ngân hàng vào cuối thập niên 80 sử dụng mô hình công ty quản
lý tài sản (Resolution Trust Corporation) để mua lại nợ xấu. Thực ra,
Hàn Quốc đã sử dụng phương pháp này cho mô hình KAMCO của mình, tuy
nhiên trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2008 - 2009 thì Hoa Kỳ đã
không sử dụng mô hình này nữa, thay vào đó Bộ Tài chính Hoa Kỳ và Ngân
hàng Trung Ương (FED) đã trực tiếp mua lại nợ xấu.
Thêm vào đó,
Bộ Tài chính Hoa Kỳ cũng trực tiếp tiếp vốn cho các ngân hàng và nắm
quyền sở hữu cổ phiếu nhưng không có quyền biểu quyết (tiếp vốn bằng
cách mua cổ phiêu với giá rẻ). Trong năm 2009 - 2011, Bộ Tài chính Hoa
Kỳ đã thoái vốn khỏi các tổ chức này và thu được lợi nhuận.
Lê Văn Đại - Nam 21 tuổi - Sinh viên:
Cháu
rất vui khi được biết thông tin VnEconomy tổ chức diễn đàn trực tuyến
giữa các chuyên gia với bạn đọc. Qua đây cho cháu hỏi chung cho các diễn
giả tham gia giao lưu như sau: Được biết rằng trong 6 tháng đầu năm nay
tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta đã có những chuyển biến theo hướng
tích cực: lạm phát có xu hướng giảm, điều này tạo cơ sở cho việc Ngân
hàng Nhà nước hạ các loại suất, nền kinh tế vẫn có sự tăng trưởng khá
trong điều kiện hết sức khó khăn. Tuy nhiên, vấn đề mà cháu muốn đề cập
tới ở đây là thách thức hiện hữu trong thời gian gần đây là nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng hiện nay đang ở mức cao khiến cho việc tiếp cận
nguồn vốn của doanh nghiệp gặp khó khăn, điều này làm cho việc hạ lãi
suất không có được hiệu quả như mong muốn. Có ý kiến cho rằng Nhà nước
sẽ dùng ngân sách nhà nước để thành lập quỹ nhằm xử lý nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng, giải pháp này áp dụng liệu có khả thi không? Điều này
có tạo ra tiền lệ trong việc xử lý nợ xấu ngân hàng trong tương lai
không? Hoặc hiện nay có giải pháp nào mà thế giới đã từng áp dụng khả
thi đối với Việt Nam không ạ? Cháu xin chân thành cám ơn!
Ông Võ Trí Thành:
Bạn có thể xem thêm phần trả lời ở trên của tôi để biết thêm nội dung.
Ngoài ra, gần đây có nhiều bài trên phương tiện truyền thông.
Tôi
đưa một số kinh nghiệm các nước. Với trường hợp của Hàn Quốc, các nước
Đông Nam Á sau cuộc khoảng hoảng tài chính 1007-1998 và kinh nghiệm một
số nước phát triển như Nhật Bản những năm 90 và Hoa Kỳ thời gian gần
đây. Đặc biệt là trường hợp là xử lý nợ xấu của Thụy Điển những năm 90.
Một
điều tổng thể tôi muốn nói liên quan đến xử lý nợ, xử lý khủng hoảng.
Đó là tủi ro đạo đức (khi gặp khủng hoảng tài chính, ngân hàng, nhà nước
phối hợp với các tổ chức cứu nền kinh tế), cho đến nay ứng xử trên thực
tế là không dễ.
Hạn chế rủi ro đạo đức và "cứu" hệ thống tài
chính hoặc một quốc gia thì thực sự không đơn giản, nhất là vào tình
huống "lâm nguy". Nên bài học ở đây là phòng bệnh hơn là chữa bệnh.
Đặng Xuân Khuyến - Nam 52 tuổi - Quản lý:
Bàn
bạc thi nhiều song các giải pháp đưa ra thường chậm,hay giật cục, môi
trường kinh doanh ngay một xấu đi. Phải chăng chúng ta chưa tập hợp được
nhân tài và thiếu cả một quyết tâm chính trị trong điều hành nền kinh
tế hiện nay?
Ông Lê Đăng Doanh:
Trong
thời gian vừa qua, điều hành của Chính phủ sử dụng quá nhiều các biện
pháp ngắn hạn, có tính tình thế, các biện pháp hành chính để xử lý các
vấn đề cấp bách của nền kinh tế. Vì vậy, Chính sách thay đổi giật cục,
đột ngột, khó dự đoán và làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong đầu tư và kinh doanh.
Tại Hội nghị 3 Ban chấp hàng Trung
ương, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra hai nguyên nhân là “tư duy
nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm”.
Hội nghị 3 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng tháng 10/2011 đã quyết định phải đổi mới mô hình tăng trưởng,
tái cơ cấu nền kinh tế với ba nội dung trọng điểm là tái cơ cấu đầu tư
công, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng tài chính, tái cơ cấu doanh nghiệp
Nhà nước mà trọng tậm là tái cơ cấu các Tập đoàn, tổng công ty Nhà nước.
Một đề án của Chính phủ đã trình Quốc hội và Quốc hội đã cho nhiều ý
kiến, cho đến nay chưa thấy Chính phủ hoàn tất đề án này và chưa thấy
Chính phủ có kế hoạch thực hiện đề án tái cơ cấu này như thế nào.
Ngoài
việc tái cơ cấu kinh tế thì Việt Nam rất cần phải thải cách thể chế,
cải cách bộ máy nhà nước, luật pháp, thủ tục hành chính, chống quan
liêu, tham nhũng, thất thoát. Một cuộc cải cách như vậy là rất cần thiết
nhưng đòi hỏi quyết tâm chính trị rất cao. Trong thời kỳ đổi mới trước
đây tình hình kinh tế nước ta còn khó khăn hơn nhiều nhưng nhờ có quyết
tâm chính trị cao của lãnh đạo, huy động được trí tuệ và tinh thần sáng
tạo của đội ngũ cán bộ trong nước nước ta đã đổi mới có nhiều kết quả và
đã đạt được tiến bộ đáng kể trển nhiều mặt.
Hiện nay, chúng ta
rất cần có một quyết tâm chính trị cao của lãnh đạo, tính sáng tạo, năng
động, tinh thần tự chịu trách nhiệm để thúc đẩy công cuộc cải cách của
nước ta.
PVD - Nam 46 tuổi - NĐT:
Tôi
cho rằng toàn bộ các biện pháp chính sách từ 2010 đến nay là không làm
trước thì cũng phải làm sau. Bởi vì chính sách cung ứng tín dụng quá rễ
rãi trong quá khứ khiến cho hiệu quả đầu tư không được coi trọng, dẫn
đến đầu tư tùy tiện, kém hiệu quả. Mục đích cuối cùng của các biện pháp
chính sách đó là cơ cấu lại nhằm tạo ra một nền kinh tế tăng trưởng bền
vững, hiệu quả đầu tư phải cao, hệ số ICOR phải thấp. Hàng chục nghìn
doanh nghiệp đã phải đóng cửa, phá sản, hoặc phải sản xuất kinh doanh
cầm chừng; nợ xấu gia tăng. Trong đó chắc chắn rất nhiều doanh nghiệp
vốn dĩ đầu tư kém hiệu quả tồn tại nhờ chính sách cung tiền rễ rãi trong
quá khứ.
Hỏi:
- Các ông cho rằng trong số doanh nghiệp đang khó khăn nói trên có bao nhiêu doanh nghiệp yếu kém như vậy?
-
Theo các ông, sự phá sản của các doanh nghiệp như thế (yếu kém, hiệu
quả đầu tư thấp, chỉ số ICOR quá cao) là tốt hay là dở? Nếu là tốt thì
sự phá sản của các doanh nghiệp đó có nên được coi là kết quả tất yếu
của các biện pháp chính sách hay không, có đáng sợ hay không? - Nếu như
việc để các doanh nghiệp yếu kém, hiệu quả đầu tư thấp, chỉ số ICOR quá
cao di vào phá sản hoặc cơ cấu lại là cần thiết thì đương nhiên nợ xấu
sẽ gia tăng. Theo các ông nên giải quyết hậu quả này bằng cách nào?
Ông Trương Đình Tuyển:
Có thể tạm chia các doanh nghiệp khó khăn ra thành hai nhóm:
Nhóm
thứ nhất: Bản thân các doanh nghiệp này trong điều kiện bình thường đã
là các doanh nghiệp yếu kém (trong số này không loại trừ doanh nghiệp tư
nhân nhưng doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ trọng khá lớn).
Nhóm
thứ hai: Các doanh nghiệp rơi vào tình thế yếu kém do sự thay đổi chính
sách đột ngột cũng như những tác động tiêu cực từ biến động của thị
trường thế giới, từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay.
Đối với nhóm thứ nhất, nếu các
doanh nghiệp phá sản thì đó là sự phá sản lành mạnh. Chúng ta vẫn thường
nói đến tình trạng các doanh nghiệp “chết mà không chôn được” là để chỉ
các doanh nghiệp này. Nếu để các doanh nghiệp này tồn tại sẽ là nguy cơ
cho nền kinh tế.
Đối với nhóm thứ hai, thì phải có giải pháp hỗ
trợ để doanh nghiệp vượt lên và bản thân họ cũng phải tái cấu trúc lại
doanh nghiệp mình khi thị trường đòi hỏi.
Để có thể thực hiện
phá sản doanh nghiệp một cách lành mạnh cần phải hoàn thiện một số định
chế, ví dụ: định chế định giá tài sản khi xử lý doanh nghiệp phá sản…
Hiện chúng ta đang thiếu các định chế này.
Thông - Nam 37 tuổi - Kỹ sư:
Xin
hỏi ông Trương Đình Tuyển và ông Lê Đăng Doanh. Báo chí thời gian gần
đây hay nhắc đến cụm từ "nền kinh tế không hấp thụ được vốn". Vậy xin
tôi xin hỏi nói như thế có đúng không? Lỗi có phải do nền kinh tế hay do
ngân hàng? Lãi suất huy động thì giảm còn 9%, trong khi lãi suất cho
vay thì lên đến 20%, khoảng cách vào-ra như vậy có hợp lý không? Khi
thua lỗ, nợ xấu nhiều thì kêu Nhà nước lấy tiền thuế ra cứu?
Ông Lê Đăng Doanh:
Mức
tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu năm
2012 là âm, mặc dù lãi suất đã giảm đáng kể. Đó là một chỉ dấu không thể
nghi ngờ rằng năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế đang bị hạn chế
nhiều.
Lý do đã được đưa ra có nhiều, trong đó có một vấn đề nổi
cộm là nợ xấu đã ngăn cản các doanh nghiệp cần vốn tiếp cận được nguồn
tín dụng mà ngân hàng cũng rất cần cho vay. Muốn nâng cao năng lực hấp
thụ vốn của nền kinh tế rõ ràng phải giải quyết “cục máu đông” nợ xấu
này trong hệ thống tuần hoàn của nền kinh tế. Hiện nay có một số dự
kiến, một số phương án khác nhau để giải quyết nợ xấu song chưa có quyết
định cuối cùng của Chính phủ. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
việc xử lý nợ xấu khá tốn kém, phải đi liền với việc cải cách mạnh mẽ hệ
thống ngân hàng và doanh nghiệp.
Ông Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp.
Bình thường lãi suất cho vay
của một ngân hàng là lãi suất huy động vốn 3%. Trong thời gian vừa cao
lãi suất huy động thì liên tục giảm với tốc độ khá nhanh, song các ngân
hàng thương mại đã huy động vốn trong quá khứ với nhiều mức lãi suất
khác nhau cao hơn nhiêu so với lãi suất liên tục giảm trong thời gian
gần đây. Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, họ phải tính
toán một mức lãi suất chung cho tổng số vốn của họ để không bị rơi vào
thua lỗ. Vì vậy, lãi suất cho vay giảm chậm hơn mức giảm của lãi suất
huy động. Tuy theo ngân hàng độ trễ này có thể vào khoảng 3 – 4 tháng.
Thành Nguyên - Nam 34 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Xin
hỏi các diễn giả, các ông có dự cảm như thế nào về tình hình kinh tế
trong 6 tháng cuối năm 2012? Khó khăn nhất của nền kinh tế đã qua chưa,
hay vẫn còn ở phía trước?
Ông Võ Trí Thành:
Tôi
được biết một số người đã cho rằng kinh tế đã qua thời kỳ khó khăn
nhất. Ở đây có hai xu hướng nhìn nhận. Một xu hướng cho rằng kinh tế sẽ
dần đi lên mà thể hiện ở 3 điểm.
Thứ nhất, một số chỉ số tháng 5
và tháng 6 đã nhúc nhắc tốt hơn, ví dụ chỉ số tăng trưởng công nghiệp,
mức bán lẻ thực, nhập khẩu (nguyên nhiên liệu và thiết bị máy móc), tín
dụng không âm như những tháng đầu năm...
Thứ hai, hy vọng Chính
phủ sẽ quyết liệt hơn các biện phát hỗ trợ, bao gồm thực thi gói 36.000
tỷ đồng. Hy vọng tín dụng sẽ được tăng lên khoảng 8-10%.
Thứ ba, giải ngân đầu tư công từ vốn trái phiếu ODA.
Chính vì vậy nhiều dự báo kinh tế tăng trưởng 5-5,5%, cao hơn hai quý đầu năm.
Tuy
nhiên, tôi đồng ý với một số rủi ro chúng ta phải đối mặt, rủi ro trì
trệ, khó khăn, khả năng kinh tế có thể đi ngang vẫn còn. Cũng có một số
chỉ số cho thấy kinh tế có thể trì trệ tiếp, rõ nhất là chỉ số PMI
(HSBC) về điều kiện kinh doanh công nghiệp chế biến. Ngoài ra, sự hoài
nghi của thị trường vẫn còn, cho nên việc khởi động phát triển kinh vẫn
còn khó khăn.
Về tổng thể, kinh tế Việt Nam năm nay rất dễ tổn
thương, dù có vượt qua được khó khăn thì nhìn chung cả năm vẫn còn rất
khó khăn.
Nguyễn Thế Anh - Nam 32 tuổi - Ngân hàng:
Phải
chăng cho phá sản có trật tự một số doanh nghiệp yếu kém là một trong
những biện pháp để tái cơ cấu nền kinh tế. Muốn vậy giải pháp thực hiện
đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp, các ngành là gì?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Phá
sản luôn là một giải pháp trong tái cơ cấu kinh tế vì đó là cách tái
phân bổ nguồn lực từ chỗ không còn hiệu quả sang chỗ có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, luật phá sản của chúng ta có hướng bảo vệ nhiều cho con nợ
thay vì chủ nợ, chính vì vậy trên quan điểm của các tổ chức tín dụng, để
con nợ phá sản thì khả năng thu hồi lại nợ vay cũng không nhiều, do vậy
chính các tín dụng cũng hạn chế sử dụng cơ chế phá sản cho các doanh
nghiệp để thu hồi nợ.
Việc xử lý phổ biến mà chúng ta thường
thấy là các xử lý các khoản nợ có tài sản bảo đảm, nhưng không phải vì
vậy mà chúng ta không sử dụng giải pháp phá sản, vì nếu không chúng ta
sẽ luôn lấy lý do luật phá sản không phát huy hiệu quả để không cho
doanh nghiệp phá sản. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước nên can thiệp để
cho một số doanh nghiệp đã thực sự không còn khả năng trả nợ được phá
sản một cách có trình tự và thông qua các trường hợp phá sản này chúng
ta mới có kinh nghiệm để cải thiện khung pháp lý cũng như tăng hiệu thực
thi hành.
Thành Nguyên - Nam 34 tuổi - Chuyên viên tài chính:
Xin
hỏi các diễn giả, các ông có dự cảm như thế nào về tình hình kinh tế
trong 6 tháng cuối năm 2012? Khó khăn nhất của nền kinh tế đã qua chưa,
hay vẫn còn ở phía trước?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Khó
khăn lớn nhất của nền kinh tế vẫn chưa qua, mặc dù lạm phát đã giảm
xuống một con số và tỷ giá được duy trì ổn định nhưng những trục trặc
trong hệ thống ngân hàng vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để.
Trong
bối cảnh đó, các giải pháp để kích cầu không thể được đưa ra một cách
mạnh mẽ và nếu có thì cũng không thể vực dậy được nền kinh tế cho dù là
trong ngắn hạn. Các điều tra doanh nghiệp hiện nay đều cho thấy những
doanh nghiệp gặp khó khăn nhất là những doanh nghiệp có tỷ lệ vay nợ cao
cho dù đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh nòng cố hay đầu tư ngoài ngành.
Số
liệu tăng trưởng tín dụng thấp trong 6 tháng đầu năm cho thấy nền kinh
tế đang trải qua quá trình giảm nợ. Có thể thấy những doanh nghiệp mạnh
nhất mà các ngân hàng muốn cho vay tiếp lại là những doanh nghiệp đang
muốn trả bớt nợ. Những tổ chức muốn đi vay tiếp lại là người gặp khó
khăn mà ngân hàng không muốn cho vay. Chính vì vậy, nên có kích cầu thì
hoạt động sản xuất khó có thể bùng trở lại.
Kinh nghiệm thế giới
đều cho thấy các nền kinh tế sau một giai đoạn tăng trưởng bùng nổ về
tín dụng, cho dù có gặp khủng hoảng hay không đều phải trải qua một giai
đoan giảm nợ. Do vậy, định hướng chính sách là phải tạo điều kiện cho
quá trình giảm nợ này diễn ra thay vì tiếp tục nuôi nợ.
Lê văn Vinh - Nam 51 tuổi - Doanh nghiệp:
1-
Có nhiều ý kiến cho rằng không thể lấy tiền thuế của dân để xử lý nợ
xấu cho ngân hàng. Theo nhận định của các ông nếu buộc các ngân hàng
phải tự xử lý nợ xấu bằng nguồn trích lập dự phòng rủi ro thì nguồn
trích lập này của các ngân hàng có đủ không, nếu không đủ thì điều gì sẽ
xảy ra và ai là những người phải gánh chịu nhiều nhất?
2-
Có ý kiến cho rằng nếu thành lập công ty mua bán nợ mà nhà nước bỏ tiền
ra thành lập hoặc nắm cổ phần chi phối thì sẽ có sự can thiệp của các
nhóm lợi ích mà phần thiệt thòi lại là nhà nước? Trong trường hợp bắt
buộc phải thành lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu nếu nhà nước tham
gia 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối thì làm thế nào để các nhóm lợi
ích không chi phối hoạt động của công ty này?
Ông Đỗ Minh Phú:
Vấn
đề nợ xấu hiện nay không còn chỉ là vấn đề riêng của nội bộ ngân hàng
hay doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải có những giải pháp rất quyết liệt và
hữu hiệu. Nếu với mức nợ xấu 108 nghìn tỷ như số liệu công bố, thì nguồn
lực tài chính để giải quyết bằng nội lực của các ngân hàng không thể
đáp ứng nổi. Thông thường, khi phát sinh nợ xấu thì các ngân hàng sẽ
buộc phải trích lập dự phòng để phòng ngừa rủi ro từ lơi nhuận của mình.
Với
mức nợ xấu cao như hiện nay, nếu không chuyển được các món nợ này thành
tài sản có thể bán được, hoặc được một tổ chức mua lại thì cục nợ xấu
sẽ cản trả hoạt động của ngân hàng, trong đó đáng lo ngại nhất là với
những khách hàng có nợ xấu sẽ không thể tiếp cận các nguồn vốn.
Giải
pháp khả thi là cần phải lập một tổ chức (công ty) để xử lý nợ xấu mang
tầm quốc gia như đề xuất phương án hiện nay. Tổ chức này phải được sử
dụng một nguồn vốn rất lớn để xử lý và chỉ có thể làm được khi có nguồn
vốn từ Nhà nước là chủ yếu cùng với sự đóng góp thêm của các nguồn lực
khác. Một điều cần làm rõ, việc mua lại các khoản nợ này không phải là
các khoản nợ do các ngân hàng gây ra mà đó là những khoản nợ của khách
hàng bao gồm cả doanh nghiệp và cá nhân không đủ khả năng trả nợ cho
chính ngân hàng.
Vì vậy, xử lý nợ hay mua lại nợ xấu không phải
để cứu ngân hàng mà để giải phóng các tài sản bảo đảm của những người
vay bằng bất động sản hay hàng hóa tại thời điểm hiện nay chưa thể bán
được nhưng có thể hầu hết trong số đó sẽ là hàng hóa có giá trong tương
lai.
Nếu việc phân loại nợ, phương án xử lý nợ xấu của công ty
(hay tổ chức) mua bán nợ được tiến hành một cách minh bạch, khoa học và
đồng bộ thì sẽ không có đất cho hoạt động chi phối (nếu có) của các nhóm
lợi ích.
Đỗ Thu Hương - Nữ 32 tuổi - Công chức:
Gần
đây, Ngân hàng Nhà nước có dự tính lập công ty mua bán nợ quốc gia để
xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, quan điểm của các ông về vấn đề
này thế nào?
Ông Đỗ Minh Phú:
Giải
quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng là một vấn đế phức tạp, đòi hỏi
quyết tâm rất cao và có “nghệ thuật” khi xử lý. Cần phải hiểu cho đúng
nợ xấu không phải do ngân hàng gây ra mà nợ xấu là các món nợ mà những
người đi vay, trong đó có doanh nghiệp và khách hàng cá nhân là chủ yếu
không trả được đúng hạn, cứ quá 90 ngày và khả năng trả nợ cả gốc cả lãi
của khách hàng là đáng nghi ngờ thì bị xếp vào nợ xấu.
Theo số
liệu công bố, thì hiện nay mức nợ xấu khoảng 108 nghìn tỷ đồng, đây là
một con số khổng lồ. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, các món nợ xấu này
chủ yếu đều có tài sản bảo đảm, hầu hết là bất động sản với giá trị cao
gấp ít nhất 1,5 lần so với giá trị khoản vay.
Vấn đề là, dùng
nguồn nào để có thể mua lại những khoản nợ xấu này mà tự các ngân hàng
thương mại không thể tự mình giải quyết được. Vấn đề nợ xấu không phải
chỉ gói gọn, là vấn đề riêng của ngân hàng mà là vấn đề mang tính xã
hội. Bởi nó liên quan người vay là doanh nghiệp, kể cả cá nhân với mục
đích tiêu dùng mà không trả được nợ đúng hạn.
Việc Ngân hàng Nhà
nước dự tính lập công ty mua bán nợ quốc gia là một phương án cho đến
nay, theo tôi hiểu vẫn là đang trong giai đoạn nghiên cứu hình thành.
Tuy nhiên, dù công ty mua bán nợ thuộc Ngân hàng Nhà nước hay Bộ Tài
chính hoặc độc lập thì vấn đề mua bán nợ xấu, làm tan “cục máu đông” nợ
xấu sẽ đặt trách nhiệm lên vai cơ quan quản lý cao nhất là Chính phủ.
Công
ty mua bán nợ xấu này phải đủ khả năng tài chính để mua lại những khoản
nợ chưa bán được vào thời điểm hiện tại nhưng sẽ trở thành món hàng
trong tương lai. Công ty mua bán nợ này sẽ phải đủ khả năng phân tích,
đánh giá những món nợ nào là hàng hóa, món nợ nào không còn giá trị để
tránh tình trạng mua phải những món hàng “ảo”. Và điều quan trọng, việc
mua bán nợ xấu cần phải được đánh giá khách quan và minh bạch.
Năm
2007, thời kỳ mà hàng loạt các ngân hàng và một số công ty hàng đầu gây
ra nợ xấu ở Mỹ, thì Chính phủ nước này đã đưa ra các gói giải cứu có
giá trị hàng nghìn tỷ USD. Gói giải cứu này đã phát huy tác dụng rất
tốt, ngăn chặn tình trạng sụp đổ của thị trường tài chính. Đây là kinh
nghiệm tốt cho chúng ta.
Cao Thanh Lam - Nam 30 tuổi - Broker:
Thị
trường chứng khoán là thước đo sức khoẻ cho nền kinh tế, vậy với thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có phản ánh đúng không thưa các
chuyên gia? Thanh khoản, minh bạch, niềm tin, quản lý...?
Ông Lê Đăng Doanh:
Thị
trường chứng khoán ở tất cả các nước đều là tấm gương phản ánh sức khỏe
nền kinh tế song đấy là một tấm gương phóng đại chứ không phải là một
tấm gương trung thực, chính xác. Tấm gương đó có yếu tố tâm lý, khi nền
kinh tế mới khởi sắc thì thị trường chứng khoán đã tăng vọt, khi nền
kinh tế mới gặp khó khăn thì thị trường chứng khoán đã suy sụp rất mạnh.
Vì vậy, sẽ rất mạo hiểm nếu sử dụng thị trường chứng khoán để đánh giá
sức khỏe một nền kinh tế vì nó sẽ thiếu chính xác, thiếu căn cứ khoa học
và không có tầm nhìn dài hạn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam
còn non trẻ, khung pháp lý chưa được hoàn thiện, mức độ công khai minh
bạch còn thấp, năng lực giám sát của các cơ quan quản lý còn hạn chế. Vì
vậy, thay vì thị trường chứng khoán là một kênh đầu tư dài hạn thì thị
trường chứng khoán ở Việt Nam còn nhiều bất ổn. Bên cạnh những nhà đầu
tư chuyên nghiệp cũng có không ít những nhà đầu tư nhỏ lẻ, lướt sóng,
quyết định mang tính chất bầy đàn.
Gần đây nhà đầu tư nước ngoài
đã thoái vốn khá nhiều trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong điều
kiện thị trường bất động sản trầm lắng, tăng trưởng kinh tế thấp, thị
trường chứng khoán chưa khởi sắc và rất cần một quá trình cải cách và
tái cơ cấu để có thể đáp ứng yêu cầu đầu tư dài hạn của nền kinh tế
trong tương lai.
Đặng Xuân Khuyến - Nam 25 tuổi - Quản lý:
Bong
bong bất động sản đã làm nước Nhật trì trệ hàng chục năm, nợ xấu của hệ
thống ngân hàng hiện nay cũng có một phần từ bong bóng bất động sản.
Các ông đánh giá như thế nào về mức độ bong bóng bất đọng sản ở nước ta
và giải pháp xử lý vấn đề này?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Trong
nhiều năm qua giá bất động sản của Việt Nam luôn cao so với mức thu
nhập bình quân. Bong bóng bất động sản gần nhất của Việt Nam xảy ra vào
giai đoạn 2007 - 2008, đợt bong bóng này đã và đang tạo ra nhiều tác
động tiêu cực đến hoạt động kinh tế.
Thứ nhất, là các sản phẩm
bất động sản được tạo ra có mức giá nằm ngoài khả năng của đại bộ phận
người dân Việt Nam, và đặc điểm của sản phẩm cũng chưa thực sự phù hợp
với nhu cầu của người sử dụng. Thứ hai, một lượng vốn đáng kể của nền
kinh tế bị chôn trong các dự án bất động sản dở dang.
Vào cuối
2008, khi bong bóng bất động sản vừa vượt qua đỉnh thì có đến 11 ngân
hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ cho vay bất động sản chiếm từ 20-70%
tổng dư nợ. Đến cuối 2011, hầu hết các ngân hàng này đều báo cáo dư nợ
cho vay bất động sản dưới.Nếu như con số báo cáo này là đúng thì bong
bóng bất động sản không còn là vấn đề đáng ngại, nhưng rõ ràng là tỷ lệ
cho vay bất động sản có giảm so với 2008 nhưng vẫn ở mức cao.
Hai vấn đề nêu trên nếu không được giải quyết thì sẽ tiếp tục là nguyên nhân gây trì trệ cho hoạt động kinh tế của Việt Nam.
Giải
pháp do vậy nằm cả ở việc điều chỉnh cấu trúc sản phẩm bất động sản và
mặc bằng giá cũng như khai thông lượng vốn đang bị chôn trong các dự án
dở dang. Gần đây thị trường và các doanh nghiệp bất động sản cũng đã
điều chỉnh để giải quyết vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai thực chất là
một nội dung của việc xử lý nợ xấu ngân hàng và chuyển đổi các dự án bất
động sản dở dang từ chủ đầu tư không còn năng lực.
Lê Minh - Nam 34 tuổi - Bạn đọc:
Các chuyên gia cho hỏi trong thời kỳ này nhà đầu tư cá nhân nên góp vốn vào lĩnh vực nào?
Ông Lê Đăng Doanh:
Trong
nền kinh tế có nhiều khó khăn của Việt Nam hiện nay vẫn có nhiều mảng
thị trường đang có nhu cầu lớn, có khả năng phát triển và sinh lời cao.
Ví dụ như ngành y tế, dược, chế biến các nguồn dược liệu truyền thống
trong nước thành những dược phẩm có tiêu chuẩn quốc tế. Giáo dục cũng là
một lĩnh vực có nhu cầu rất cao từ nhà trẻ, mẫu giáo, trường bán trú
cho đến trường đại học có chất lượng cao. Cũng có thể tìm được những
mảng thị trường, những ngành hàng trong sản xuất và dịch vụ khác nhau có
tỷ lệ sinh lợi tốt (như du lịch).
Nguyễn Hồng Hạnh - Nữ 35 tuổi - CB ngân hàng:
Xin
hỏi ông Đỗ Minh Phú. Với vai trò là Chủ tịch của một tập đoàn lớn kinh
doanh ở nhiều lĩnh vực đã thành công, tại sao ông lại lựa chon TienPhong
Bank, khi mà ngân hàng này cũng đang trong tình trạng khó khăn? Ông đã
làm gì để TienPhong Bank lại vực dậy và lấy lại được uy tín như ngày hôm
nay?
Ông Đỗ Minh Phú:
Tập
đoàn DOJI và cá nhân tôi lựa chọn đầu tư vào ngân hàng Tiên Phong là
một mối lương duyên. Chúng tôi nhìn thấy nhiều nét tương đồng của các cổ
đông, ở Tiên Phong có các tập đoàn hàng đầu như FPT, MobiFone, tái bảo
hiểm quốc gia VinaRe… Tiên Phong được đánh giá là một trong số ít các
ngân hàng minh bạch nhất và có nhiều tiềm năng khai thác nhất hiện nay.
Chúng tôi không ngại chấp nhận khó khăn thử thách vì thực tế, trong quá
trình phát triển của mình, chúng tôi cũng phải vượt qua nhiều thách thức
để đi đến thành công.
Với quyết tâm rất cao của tất cả các cổ
đông lớn và toàn thể cán bộ, nhân viên ngân hàng, Tiên Phong sẽ sớm tạo
được vị thế của mình. Tiên Phong đã lựa chọn 4 lĩnh vực mũi nhọn để phát
triển trong giai đoạn tới, trong đó có hai lĩnh vực hoàn toàn mới là
lĩnh vực kinh doanh vàng, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh và
sản xuất vàng bạc đá quý, trang sức. Tham gia tiếp nhận vốn từ các
nguồn trong và ngoài nước để xây dựng công nghiệp phụ trợ, trong đó có
khu công nghiệp phụ trợ nam Hà Nội (Hanssip).
Cùng với Hội đồng
Quản trị và Ban Điều hành, chúng tôi tiến hành tái cơ cấu ngân hàng Tiên
Phong một cách toàn diện, trong đó tập trung vào cơ cấu lại nguồn lực,
quản trị điều hành, định hướng hoạt động. Đến nay, Tiên Phong có rất
nhiều điểm mới: Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng giám đốc mới, thêm cổ
đông mới, thêm nguồn vốn đóng góp mới (1.500 tỷ đồng), lĩnh vực hoạt
động mới. Chắc chắn rằng, Tiên Phong sẽ thực hiện thành công mục tiêu:
ổn định - hiệu quả - phát triển bền vững.
Nguyễn Ba Ra - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cho
hỏi các chuyên gia kinh tế, trong các báo cáo thấy số liệu cho vay bất
động sản là 348 ngàn tỷ VND. Vậy đây là con số cho vay với mục địch kinh
doanh bất động sản hay đây là con số dư nợ cho vay thế chấp bằng bất
động sản? Theo như đặc thù tín dụng Việt Nam thì 99% tài sản thế chấp
ngân hàng là bất động sản thì với tình hình hiện nay giá bất động sản
tụt dốc, kinh tế khó khăn bài toán này giải theo hướng nào cho hợp lý?
Có cần thanh tra đánh giá lại tài sản thế chấp của ngân hàng để có cái
nhìn đúng nhất về nợ xấu, người dân tin tưởng thì mới khơi thông được
dòng vốn?
Ông Võ Trí Thành:
Con
số dư nợ bất động sản chính thức khoảng 9-10% tổng dự nợ tín dụng. Tuy
nhiên có nhiều ước tính cho thấy con số có thể gấp đôi. Hiện nay theo
tôi được biết Ngân hàng Nhà nước đang tập trung đánh giá lại chuẩn xác
dư nợ bất động sản, cũng như nợ xấu bất động sản nói riêng và nợ xấu
toàn hệ thống nói chung.
Việc bất động sản đóng băng dẫn đến hai hệ lụy.
Một là, nợ xấu tăng trong hệ thống ngân hàng
Hai là, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng giảm đi do tài sản dựa vào bất động sản thế chấp.
Cách
xử lý gắn với câu chuyện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu.
Ngoài ra, cách làm là nên giúp một số phân khúc tan băng. Cách làm này
cũng hỗ trợ theo hướng làm nhẹ đôi chút trong xử lý nợ xấu.
Tuy
nhiên, chúng ta không thể cứu bất động sản theo cách tổng thể. Đằng sau
câu chuyện đó là bài học đắt giá, học mãi không thuộc của nhiều nước
trên thế giới, đó là bong bóng bất động sản và bất ổn kinh tế vĩ mô.
Điều này gây nên nhiều tai hại cho phát triển kinh tế và xã hội.
Trần Thúy Ngà - Nữ 34 tuổi - Nhà đầu tư:
Tháng
6 vừa rồi CPI lần đầu tiên giảm sau hơn ba năm. Có nhiều ý kiến bình
luận khác nhau, tôi không biết là nên mừng hay lo nữa, mà thực tế thấy
giá cả có giảm mấy đâu. Xin các chuyên gia cho ý kiến.
Ông Võ Trí Thành:
Tháng
6 vừa rồi CPI lần đầu tiên giảm sau hơn ba năm. Có nhiều ý kiến bình
luận khác nhau, tôi không biết là nên mừng hay lo nữa, mà thực tế thấy
giá cả có giảm mấy đâu. Xin các chuyên gia cho ý kiến.
Điều tôi
muốn nói là tính toán biến động giá của Tổng cục Thống kê là theo thông
lệ quốc tế. Nó dựa trên rổ hàng hóa đủ lớn, mỗi mặt hàng có trọng số gắn
vào đấy, đại diện cho mức tiêu dùng chung của xã hội.
Chỉ số giá
tiêu dùng công bố có chính xác hay không dựa vào điều tra. Đứng về góc
độ cảm nhận cá nhân thường gắn với mặt hàng thiết yếu quan sát thấy và
phụ thuộc vào nhóm hàng tiêu dùng cá nhân, cho nên có thể thấy khác biệt
mức chung và cảm nhận cá nhân.
CPI so với cùng kỳ tăng 6,9% mừng
hay lo? việc CPI giảm tốc có dấu hiệu tích cực. Việc kéo lạm phát xuống
là dấu hiệu tích cực. Nhưng tích cực nhất là thể hiện mục tiêu chính
sách từ nay luôn quan tâm đến ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có việc
giữ lạm phát ở mức đủ thấp, ví dụ khoảng 5-7%. Tuy nhiên, trong mức giảm
nhanh hiện nay cũng phản ảnh lo ngại, đó là tổng cầu suy giảm quá nhanh
và hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ. Chính vì vậy, trong năm nay,
chúng ta không muốn thấy mức lạm phát quá thấp, ví dụ dưới 6%.
Lý do, nếu lạm phát quá thấp thì sản xuất kinh doanh quá đình trệ, đằng sau đó là vấn đề xã hội, việc làm, thu nhập...
Chúng
ta đang có các gói hỗ trợ và đưa tín dụng ra, giải ngân vốn đầu tư
công. Tất nhiên chúng ra phải bám sát biến động thị trường, kinh tế thế
giới để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Dwan Nguyễn - Nam 35 tuổi - Analyst:
Xin hỏi ông Nguyễn Xuân Thành, theo
những gì rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mĩ năm 2008, thì trước
khủng hoảng là giai đoạn của các thương vụ M&A lịch sử ( năm 2006
& 2007). Đối với Việt Nam năm 2011 và 2012 là năm được ghi nhân với
những thương vụ M&A kỷ lục ( 2,7 và dự kiến 4.1 tỷ USD theo số liệu
của một diễn đàn M&A mới được tổ chức hồi tháng 6/2012). Vậy xin hỏi
ông liệu cơn bão tài chính vẫn còn đang ở phía trước?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
M&A sôi động ở Việt Nam trong thời gian qua là những dẫn chứng cho
thấy tính năng động của nền kinh tế VN, mặc dù không có nhiều sự hỗ trợ
về khung pháp lý và chính sách của Nhà nước. Nhìn vào những thương vụ
M&A vừa qua ta có thể thấy những doanh nghiệp được mua lại hay bị
thâu tóm là những tổ chức có hoạt động kinh doanh nòng cốt tốt với những
lợi thế cạnh tranh vẫn được duy trì, nhưng bị khó khăn hoặc do quản lý
kém hoặc vay nợ quá nhiều, hoặc cả hai.
Như vậy, việc chuyển đổi sở hữu và tiếp thêm vốn thông qua M&A sẽ
giúp tăng lại gía trị cho các doanh nghiệp này. Theo tôi, hoạt độg
M&A trong thời gian tới sẽ vẫn còn có nhiều cơ hội. Quay trở lại với
chủ đề nợ xấu của chúng ta, M&A không thôi sẽ không thể giải quyết
vấn đề bởi vì rất nhiều doanh nghiệp phi tài chính cũng như các tổ chức
tín dụng đã quá yếu kém để cho thể được cứu thông qua M&A.
Chính vì vậy, đòi hỏi phải có giải pháp của Nhà nước để xử lý các tổ
chức này. Đặc biệt là các tổ chức tài chính yếu kém. Thay vì tìm các tổ
chức mua lại thì Nhà nước đứng ra tiếp quản, giải quyết sạch sẽ rồi mới
bán lại cho nhà đầu tư mới. Hay nói cách khác, Nhà nước là cầu nối cho
hoạt động M&A.
Dwan Nguyễn - Nam 35 tuổi - Analyst:
Xin hỏi ông Nguyễn Xuân Thành, ông
đánh giá thế vào các vấn đề rủi ro đạo đức của ngân hàng ở châu Âu, tác
động của nó đến vấn đề kinh tế thế giới? Sự thâu tóm của nhóm lợi ích
đến từ ngân hàng Phương Nam đối với Sacombank có phải là một vụ LBO điển
hình? Liệu vụ thâu tóm này có phát động một làn sóng thâu tóm (coporate
raid) ngân hàng?
Ông Nguyễn Xuân Thành:
Thương vụ thâu tóm Sacombank là một ví dụ điển hình cho một doanh nghiệp
vẫn có hoạt động kinh doanh nóng cốt tốt, vị thế chiến lược tốt nhưng
do trục trặc trong quản trị làm cho các cổ đông (chiến lược và thiểu số)
mất niềm tin, dẫn đến giá cổ phiếu suy giảm và trở thành một "con mồi"
hấp dẫn cho các NĐT mới thâu tóm, thậm chí bằng vay nợ.
Đối với Sacombank hoạt động thâu tóm này là tích cực trong việc tăng gía
trị cho ngân hàng, buộc ngân hàng tái cơ cấu trong bộ máy quản trị lẫn
trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, theo tôi có hai khía cạnh không
tốt trong thương vụ này.
Thứ nhất là hoạt động thâu tóm được diễn ra một cách không minh bạch,
nhưng chúng ta biết rằng nếu minh bạch thì hoạt động mua bán cổ phiếu sẽ
không đúng luật. Các cơ quan quản lý Nhà nước nắm bắt được hoạt động
thâu tóm này nhưng cũng không hề giúp làm cho minh bạch hơn.
Thứ hai, sau hoạt động thâu tóm này, vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng thương mại cổ phần còn trở nên phức tạp hơn.
Chúng ta đều biết sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
thời gian qua đã giúp các ngân hàng thương mại vô hiệu hoá hầu hết các
quy định bảo đảm an toàn của Ngân hàng Nhà nước về vốn trong cho vay tín
dụng, đảm bảo thanh khoản và báo cáo nợ xấu, trích nợ phòng rủi ro.
Việc nhóm các nhà đầu tư thông qua các công ty cổ phần đầu tư tài chính,
công ty chứng khoán, công ty vàng bạc, quỹ đầu tư để thâu tóm các ngân
hàng, vay ngân hàng này, góp vốn ngân hàng kia... là vấn đề mà đề án tái
cấu trúc (Quyết định 254) muốn giải quyết. Nhưng đáng tiếc, hoạt động
mua bán sáp nhập ngân hàng trong thời gian vừa qua còn làm trầm trọng
thêm tình trạng sở hữu chéo này.
Hoàng Văn Hoàng - Nam 30 tuổi - Kinh tế:
Xin hỏi các chuyên gia, rõ ràng kinh
tế Việt Nam đang rất khủng hoảng và nguy hiểm; vậy mà tại sao các lãnh
đạo Việt Nam vẫn nói rằng có tín hiệu tích cực? và không đáng lo ngại?
Xin cảm ơn các chuyên gia!
Ông Trương Đình Tuyển:
Nếu nhìn vào các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (lạm phát giảm, tăng trưởng GDP
quý 2 cao hơn quý 1, dự trữ ngoại tệ tăng, tỷ giá ổn định, giá trị đồng
tiền Việt Nam được bảo đảm tốt hơn…) thì nói kinh tế Việt Nam có tín
hiệu tích cực là không sai.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, nền kinh tế thực và các doanh nghiệp đang còn rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất, nợ xấu trong các ngân hàng thương mại đang phải loay hoay tìm
cách xử lý. Các doanh nghiệp rất khó tiếp cận vốn, tín dụng với lãi suất
thấp mặc dù lãi suất huy động đã giảm.
Thứ hai, sản xuất kinh doanh trì trệ, số doanh nghiệp phải ngừng hoặc thu hẹp hoạt động tăng lên.
Thứ ba, tăng trưởng quý 2 tuy có cao hơn quý 1 nhưng mức tăng trưởng vẫn
rất thấp. 6 tháng đầu năm chỉ tăng trưởng 4,38%, là mức tăng rất thấp
so với cùng kỳ nhiều năm trước đây. Trong khi đó, nền kinh tế thế giới
đang phục hồi yếu ớt và bấp bênh. Có thể nó khó khăn vẫn còn ở phía
trước, đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan quản lý cũng như cộng đồng
doanh nghiệp.
Nguyễn Đức Minh - Nam 35 tuổi - Kỹ sư XD:
Thưa các chuyên gia. Với tình hình nợ
xấu ngân hàng trên dưới 10% tài sản hiện nay, Chính phủ đã có đề xuất
sáp nhập, tái cơ cấu, rồi thành lập công ty mua bán nợ. Nhìn chung là
giải pháp đã có, nhưng tiến trình hình như còn quá chậm và vướng mắc
nhóm lợi ích gì đó. Theo các chuyên gia tại sao chúng ta không để cho
một số ngân hàng quá yếu kém “chết” hẳn mà phải sáp nhập? Có cách nào để
các ngân hàng này chết mà không ảnh hưởng lớn đến toàn hệ thống ngân
hàng? Và việc thành lập Tổng công ty mua bán nợ là điều tốt nhưng liệu
đây có phải là "siêu tổng công ty" kiểu Vinashin, Vinalines hay EVN
không? Trong khi chúng ta đang kêu gọi giảm bớt các tổng công ty này?
Ông Lê Đăng Doanh:
Vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã cho sáp nhập, hợp nhất một số ngân hàng
nhỏ, yếu kém. Đó có thể coi là một hình thức để cải cách các ngân hàng,
trong đó một số ngân hàng nhỏ sẽ biến mất được hòa tan trong một ngân
hàng lớn hơn, có chất lượng cao hơn. Kết quả của giải pháp này như thế
nào thì cần được thực tế chứng minh.
Tổng công ty mua bán nợ là một loại hình công ty tài chính đặc thù, rất
cần sự hợp tác của các công ty có liên quan như kế toán, kiểm toán, tư
vấn đánh giá giá trị của nợ xấu của ngân hàng và doanh nghiệp để công ty
đó hoạt động có hiệu quả.
Không có những công ty có liên quan hoạt động một cách độc lập, có trách
nhiệm trong một môi trường pháp lý rõ ràng thì hoạt động của công ty
mua bán nợ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, rất cần rút bài học kinh
nghiệm của các tập đoàn kinh tế đã bị đổ vỡ để xây dựng khung pháp lý,
quyết định nhân sự thích hợp đối với công ty này.
Nguyễn Trung Kiên - Nam 27 tuổi - Tài chính ngân hàng:
Xin bác Tuyển cho biết với những chính
sách mà nhà nước đã đưa ra để cải thiện tình hình kinh tế thì đến bao
giờ nền kinh tế mới có thể xem là đi vào "nền nếp", mọi hoạt động kinh
tế, đặc biệt là hoạt động của các ngân hàng thương mại sẽ thông suốt?
Trân trọng.
Ông Trương Đình Tuyển:
Trong những năm vừa qua, do những yếu kém trong quản lý và điều hành
nền kinh tế cùng với tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, đã dẫn
đến tình trạng bất ổn vĩ mô kéo dài. Chu kỳ lạm phát cao (2008) suy giảm
tăng trưởng (2009) rồi trở lại lạm phát cao (2010 – 2011), suy giảm
tăng trưởng (2012) là bài học lớn trong quản lý và điều hành nền kinh tế
mà Chính phủ đã rút ra và được phân tích kỹ lưỡng trong phiên họp Chính
phủ ngày 3/7 vừa qua.
Vì vậy, chủ trương nhất quán của Chính phủ là bằng mọi cách phải ổn định
kinh tế vĩ mô, phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng, nhưng không vì tốc
độ tăng trưởng mà đẩy lạm phát lên cao trong năm 2013. Nếu tinh thần
chỉ đạo đó được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt thì kinh tế Việt Nam sẽ
tạo được thế ổn định trong năm 2013 và các năm tiếp theo. Đây chính là
tiền đề để bảo đảm tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia.
Mặt khác, phải đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng mà trước mắt tập trung vào 3 nội dung: tái cơ cấu đầu
tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại.
Nếu làm tốt các nội dung này thì kinh tế Việt Nam sẽ đi vào quỹ đạo tăng
trưởng ổn định. Tuy nhiên, theo nhận xét của tôi thì tiến trình này
đang diễn ra chậm chạp.
Văn Hòa - Nam 47 tuổi - Doanh nhân:
Sau một thời gian dài chịu đựng, lãi
suất đã liên tục giảm nhanh, hiện còn 9 – 12%. Các chuyên gia đánh giá
thế nào về việc điều hành lãi suất trong thời gian qua? Dự báo từ nay
đến cuối năm lãi suất có giảm được nữa không? Tăng trưởng tín dụng thì
thấp như vậy, sao không thấy ai chịu trách nhiệm về việc điều hành không
đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu, để rồi các doanh nghiệp và người dân là
những đối tượng phải gánh chịu? Xin các chuyên gia chia sẻ.
Ông Lê Đăng Doanh:
Lãi suất tín dụng đã liên tục giảm theo những quyết định hành chính của
Ngân hàng Nhà nước, cơ sở giảm lãi suất huy động là chỉ số lạm phát phải
tiếp tục thấp và phải thấp hơn lãi suất huy động tiền tiết kiệm để
người gửi tiền tiết kiệm có lãi suất thực dương. Vì vậy, khả năng tiếp
tục giảm lãi suất phụ thuộc vào diễn biến của chỉ số lạm phát trong
tương lai. Không thể giảm lãi suất mạnh hơn mức giảm lạm phát vì lúc đó
người gửi tiền tiết kiệm tìm kiếm những kênh đầu tư khác.
Việc giảm lãi suất tiết kiệm không tự động dẫn đến tăng mức tín dụng vì
còn phụ thuộc vào việc giải quyết nợ xấu. Sắp tới đây cần giải quyết nợ
xấu để khai thông nguồn tín dụng cũng như sự lưu thông nguồn vốn trong
nền kinh tế.
Văn Hòa - Nam 47 tuổi - Doanh nhân:
Sau một thời gian dài chịu đựng, lãi
suất đã liên tục giảm nhanh, hiện còn 9 – 12%. Các chuyên gia đánh giá
thế nào về việc điều hành lãi suất trong thời gian qua? Dự báo từ nay
đến cuối năm lãi suất có giảm được nữa không? Tăng trưởng tín dụng thì
thấp như vậy, sao không thấy ai chịu trách nhiệm về việc điều hành không
đảm bảo kế hoạch, chỉ tiêu, để rồi các doanh nghiệp và người dân là
những đối tượng phải gánh chịu? Xin các chuyên gia chia sẻ.
Ông Trương Đình Tuyển:
Tính từ tháng 3 đến nay, lãi suất trần huy động đã giảm 5 điểm %, từ mức
14% xuống còn 9% với các khoản huy động dưới 12 tháng. Mức giảm lãi
suất huy động là hợp lý so với mức tăng chỉ số giá tiêu dùng. Tuy nhiên,
điều mà doanh nghiệp mong muốn là lãi suất cho vay phải giảm.
Nếu lãi suất huy động giảm mà lãi suất cho vay không giảm được là không
đạt mục tiêu và có thể gây ra những hệ lụy khác (người dân có thể chuyển
sang các kênh đầu tư khác như: mua vàng, ngoại tệ…). Vì vậy phải giảm
cho được lãi suất cho vay và việc này có liên quan đến xử lý nợ xấu mà
tôi đã đề cập ở câu trả lời trước.
Nguyễn Ba Ra - Nam 22 tuổi - Sinh viên:
Cho hỏi các chuyên gia kinh tế, trong
các báo cáo thấy số liệu cho vay bất động sản là 348 ngàn tỷ VND. Vậy
đây là con số cho vay với mục địch kinh doanh bất động sản hay đây là
con số dư nợ cho vay thế chấp bằng bất động sản? Theo như đặc thù tín
dụng Việt Nam thì 99% tài sản thế chấp ngân hàng là bất động sản thì với
tình hình hiện nay giá bất động sản tụt dốc, kinh tế khó khăn bài toán
này giải theo hướng nào cho hợp lý? Có cần thanh tra đánh giá lại tài
sản thế chấp của ngân hàng để có cái nhìn đúng nhất về nợ xấu, người dân
tin tưởng thì mới khơi thông được dòng vốn?
Ông Lê Đăng Doanh:
Rất khó xác định chính xác tổng số tín dụng đã được cấp cho kinh doanh
bất động sản. Có những nguồn tín dụng cấp trực tiếp cho những công ty
bất động sản, ngoài ra còn có rất nhiều khoản tín dụng được cấp cho
người tiêu dùng để mua bất động sản trong đó có cả những người đầu cơ
bất động sản. Những khoản tín dụng khác được cấp cho doanh nghiệp cũng
thường được thế chấp bằng bất động sản. Giá trị bất động sản được định
trong thời kỳ cấp tín dụng đã thay đổi rất nhiều do mặt bằng tổng thể
bất động sản ở Việt Nam đã giảm sút đáng kể.
Điều này làm cho việc xác định chính xác tổng số nợ cho bất động sản và
nợ xấu có liên quan đến bất động sản rất khó khăn. Khủng hoảng hay bùng
nổ bong bóng bất động sản là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khủng
hoảng kinh tế ở Mỹ năm 2007. Bong bóng bất động sản cũng đang gây ra một
mối nguy hiểm đáng kể ở Trung Quốc. Việc xử lý nợ bất động sản ở Việt
Nam cần được rút kinh nghiệm từ các bài học quốc tế này.
Nguyễn Trung - Nam 38 tuổi - Doanh nghiệp nhỏ:
Diễn đàn nói tới hy vọng phục hồi, tôi
thì chưa thấy đâu bởi vì là nhiều doanh nghiệp đã phá sản, không đến
được ngân hàng, không vay được vốn. Các ngân hàng thì giới thiệu gói này
gói nọ nhưng có vay được đâu, vay được thì lãi suất ngất ngưởng. Vậy
thì làm sao hy vọng phục hồi được, chỉ khi nào lãi suất xuống 7% và tín
dụng thực sự tăng trưởng rõ rệt, có lẽ phải đến năm 2013.
Ông Võ Trí Thành:
Cũng như một số câu tôi đã trả lời, hy vọng phù hợp ít nhiều dựa trên
một số tín hiệu sản xuất kinh doanh tốt hơn trong vài tháng gần đây (mặc
dù không phải là không có con số mâu thuẫn).
Bên cạnh đó, tác động ít nhiều tích cực của gói hỗ trợ cùng đưa tín dụng ra, giải ngân ngân sách.
Nhiều dự báo tăng trưởng kinh tế còn thấp, nhưng cao hơn quý 1 và quý 2.
Tôi cũng đồng tình là kinh tế tiếp tục khó khăn vẫn còn.
Một là dòng tiền khó quay, gắn với lòng tin chưa quay trở lại và hoài nghi vẫn còn lớn. Doanh nghiệp vẫn rất khó tiếp cận vốn.
Hai là, theo tôi được biết trong khó khăn hiện nay cũng có những cách
làm như Tp.HCM là tăng cường kết nối doanh nghiệp, ngân hàng, hỗ trợ của
chính quyền thì tín dụng "chảy" ra tốt hơn.
Gần đây, gói 3.000 tỷ đồng ở Tp.HCM đã được giải ngân hết cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Một số hiệp hội kết nối ngân hàng cho vay với lãi
suất thấp mà không cần thế chấp. Cách làm này nên được khuyến khích.
Cá nhân tôi hy vọng trần lãi suất cho vay đối với một số đối tượng và
lãi suất 15% với lãi suất cũ sẽ có hiệu lực chứ không phải cửa miệng.
Nhìn tổng thể thì khó khăn ở phía trước, Ngân hàng Nhà nước muốn tăng
tín dụng năm nay (gần như bằng 0 trong 6 tháng) lên khoảng 10-12%, nhưng
khả năng hiện thực hơn thì khoảng 8-10%.
Vo Quoc Hung - Nam 46 tuổi - Nhà đầu tư:
Thời gian gần đây, khi lạm phát giảm,
tăng trưởng kinh tế thấp, nhiều ý kiến cho rằng nên trở lại thúc đẩy đầu
tư công, tăng cầu cho nền kinh tế. Theo các chuyên gia, có nên thúc đẩy
không và đầu là những điều cần lưu ý?
Ông Võ Trí Thành:
Suy giảm kinh tế ở Việt Nam nặng nề, Chính phủ đã đưa ra các biện pháp
hỗ trợ, bao gồm: chính sách tiền tệ, tài khóa. Về cơ bản chính sách ấy
để giảm chi phí bên cung (giảm lãi suất, tăng khả năng tiếp cận tín
dụng, giảm, giãn, miễn thuế,... và phần nào kích cầu, thúc đẩy đầu tư
công, xúc tiến thương mại...)
Tuy nhiên, phải nhấn mạnh cách thức hỗ trợ lần này khác nhiều so với năm
2009 sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Chúng ta gọi là gói hỗ trợ
chứ không lớn như gói kích cầu 2009 (7,8 tỷ USD và gói hỗ trợ lãi suất 1
tỷ USD).
Có nhiều lý do, thứ nhất: chúng ta cần ổn định, không thể hỗ trợ (cứu
tất cả để quay lại vòng xoáy tăng trưởng bất ổn, chích sách giật cục).
Thứ hai, chúng ta cũng cần thay đổi cách thức phát triển, tăng trưởng
hiệu quả hơn (có nghĩa là chịu đau, điều này gắn với tái cấu trúc nền
kinh tế).
Thứ ba, chúng ta không có quá nhiều nguồn lực, một phần nguồn lực để phải tái cấu trúc.
Nói một cách ngắn gọn, chúng ta phải hỗ trợ quyết liệt cho doanh nghiệp.
Đằng sau đó phải ổn định kinh tế vĩ mô và bước vào mô hình tăng trưởng mới.
Vo Quoc Hung - Nam 46 tuổi - Nhà đầu tư:
Thời gian gần đây, khi lạm phát giảm,
tăng trưởng kinh tế thấp, nhiều ý kiến cho rằng nên trở lại thúc đẩy đầu
tư công, tăng cầu cho nền kinh tế. Theo các chuyên gia, có nên thúc đẩy
không và đầu là những điều cần lưu ý?
Ông Trương Đình Tuyển:
Thời gian gần đây, khi lạm phát giảm, tăng trưởng kinh tế thấp, nhiều ý
kiến cho rằng nên trở lại thúc đẩy đầu tư công, tăng cầu cho nền kinh
tế. Theo các chuyên gia, có nên thúc đẩy không và đầu là những điều cần
lưu ý?
Đúng là trong tình hình hiện nay, khi cầu đầu tư và tiêu dùng giảm thì
chính sách tài khóa (để hỗ trợ đầu tư) là giải pháp cần thực hiện. Tuy
nhiên, tăng đầu tư công nó bị giới hạn bởi mức bội chi ngân sách đã được
khống chế dưới 4,8% GDP.
Hơn nữa, đầu tư công hiện chủ yếu vẫn do doanh nghiệp nhà nước thực hiện
và phân bổ theo kiểu hành chính nên hiệu quả thấp. Trên thực tế, nghị
quyết 13 của Chính phủ cũng đã sử dụng các chính sách tài khóa để hỗ trợ
thị trường (ví dụ tăng đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn),
hoãn nộp thuế VAT và thuế Thu nhập doanh nghiệp có thời hạn. Những chính
sách này tuy có tác dụng tích cực nhưng không lớn. Nhiều ý kiến cho
rằng, cần giảm thuế VAT ở một số sản phẩm, đưa thuế thu nhập doanh
nghiệp xuống 20% để kích cầu tiêu dùng và đầu tư.
Tuy nhiên, những đề xuất này vì nhiều lý do khác nhau nên chưa được chấp
nhận. Theo tôi được biết thì Bộ Tài chính đang chuẩn bị trình Quốc hội
trong kỳ họp tới, mức thuế thu nhập doanh nghiệp mới là 20%. Trong tình
hình đó, phải kết hợp các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ,
theo đó phải hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp trong kinh doanh
và đầu tư. Tại cuộc họp toàn ngành ngân hàng vừa qua, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước cũng đã chỉ đạo quyết liệt theo yêu cầu này.
Ngo The Vien - Nam 59 tuổi - Xay dung:
Trong nhiều năm qua phần lớn các doanh
nghiệp nhà nước do đầu tư dàn trải, hệ thống quản lý kiểm soát lỏng
lẻo, vay vốn đầu tư chủ yếu từ nguồn ngân hàng nên nợ xấu đến nay rất
cao. Vậy xin hỏi các chuyên gia, nhà nước có nên cứu những khoản nợ này?
Cứu bằng cách nào?
Ông Trương Đình Tuyển:
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu. Chưa
nói đến trách nhiệm thuộc về ai nhưng nợ của doanh nghiệp nhà nước thì
nhà nước phải trả và cuối cùng là người dân đóng thuế phải chịu.
Vấn đề hiện nay là có nên tồn tại loại hình doanh nghiệp này không? Hiện trong giới chuyên gia có 3 loại ý kiến khác nhau:
Loại ý kiến thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo cân đối vĩ mô. Đây cũng là quan điểm chính thống của Đảng.
(Cá nhân tôi không nghĩ như vậy).
Loại ý kiến thứ hai: Doanh nghiệp nhà nước không có vai trò gì, nó giống
như các thành phần kinh tế khác. (Tôi cũng không đồng tình với quan
điểm này).
Loại ý kiến thứ 3: Đây là ý kiến của cá nhân tôi và một số chuyên gia
khác. Trong điều kiện doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam còn nhỏ bé, năng
lực công nghệ rất thấp (tuy có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân rất giàu
có số vốn lên tới hàng trăm triệu USD, thậm chí hàng tỷ USD nhưng chủ
yếu là từ kinh doanh bất động sản, chứng khoán chứ không phải chủ yếu từ
năng lực công nghệ).
Vì Vậy, doanh nghiệp nhà nước có vai trò trong việc thực hiện chính sách
công nghiệp, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
khi mà doanh nghiệp tư nhân chưa có điều kiện thực hiện. Mặt khác, chúng
ta phải có cơ chế chính sách để doanh nghiệp tư nhân phát triển công
nghệ. Đây cũng là bài học kinh nghiệm của các nước khác.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tái cấu trúc lại doanh nghiệp nhà nước
một cách kiên quyết. Bắt đầu từ việc xác định vai trò doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Lĩnh vực nào nhà nước cần chiếm cổ phần chi phối, còn lại phải cổ phần
hóa. Phải thay đổi cơ chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước, minh bạch
hóa hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, phải đặt doanh nghiệp nhà nước
vào môi trường cạnh tranh, quy định tiêu chuẩn về lãnh đạo quản lý doanh
nghiệp nhà nước…
Vũ Công Hai - Nam 23 tuổi - Sinh viên:
Thưa bác Trương Đình Tuyển, cháu muốn
hỏi là trong tình hình đầu ra của hàng hóa bế tắc trên cả thị trường
trong và ngoài nước như hiện nay, Chính phủ nên làm gì để giải quyết vấn
đề đầu ra cho doanh nghiệp ngoài khả năng kích thích tiêu dùng. Đặc
biệt là sản phẩm gạo đang có nguy cơ dư thừa rất cao, trong khi Triều
Tiên đang thiếu đói thì chắc chắn Liên Hợp Quốc sẽ có chương trình can
thiệp. Với tư cách là nguyên Bộ trưởng Thương mại, theo bác thì Chính
phủ có thể tranh thủ kí kết các hợp đồng với Liên Hợp Quốc và các tổ
chức phi chính phủ khác để giải quyết phần nào hàng hoá ứ đọng của chúng
ta được hay không, đặc biệt là mặt hàng lúa gạo?
Ông Trương Đình Tuyển:
Đúng như cháu nói, cầu trên thị trường nội địa cũng như quốc tế đang rất
thấp, trong đó có mặt hàng gạo – mặt hàng xuất khẩu lớn của ta. Bác nói
thêm là, đối với hàng nông sản nói chung và mặt hàng gạo nói riêng thì
cầu là tương đối ổn định, nhưng cung thì phụ thuộc vào thời tiết mùa vụ,
và vì vậy thường là biến động trong ngắn hạn.
Vì vậy, nhà nước phải có chính sách hỗ trợ, ví dụ: tăng mua để đưa vào
dự trữ như nhà nước vẫn làm như trong những năm trước đây để tiêu thụ
hết lúa gạo cho nông dân với giá có lợi cho người sản xuất lúa gạo. Đây
cũng là biện pháp kích thích tiêu dùng trong khu vực nông nghiệp và nông
thôn (Người nông dân mà bán được gạo với giá tốt sẽ tăng mua các sản
phẩm khác).
Về việc bán gạo theo chương trình viện trợ lương thực của Liên hợp quốc
cho Bắc Triều Tiên mà cháu đề cập đến. Hiện nay, đúng là Triều Tiên đang
bị thiên tai và tình trạng thiếu lương thực đang diễn ra. Trước đây,
khi còn là Bộ trưởng Thương mại, bác đã cố gắng bán gạo cho Hàn Quốc và
Nhật Bản để chuyển cho Bắc Triều Tiên ở thời điểm đó là rất khó vì Bắc
Triều Tiên chỉ nhận gạo với chất lượng cao, mà gạo chất lượng cao của
nước ta vào thời điểm đó là rất ít.
Trong những năm gần đây, chúng ta cũng đã tăng mức sản xuất gạo chất
lượng cao khá hơn, bác hy vọng rằng, nếu có chương trình như cháu nói
thì các Bộ: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chắc chắn
cũng tìm cách để thực hiện công việc này.
Ưu tiên sửa chữa nhà ở, trường học cho người dân vùng bão
Ngày 26/8, ngay sau khi chủ trì cuộc họp Ban Chỉ đạo tiền phương ứng phó với bão số 5, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã trực tiếp đến Hà Tĩnh thăm hỏi nhân dân, động viên lực lượng tại chỗ và kiểm tra tình hình khắc phục hậu quả tại nhiều địa bàn bị thiệt hại nặng.
Bão số 5 gây thiệt hại nặng nề tại nhiều địa phương, tiếp tục đề phòng lũ quét và sạt lở đất
Sơ bộ tính đến sáng 26/8, bão số 5 và mưa lớn đã khiến 3 người chết; khoảng 7 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, tốc mái, hư hỏng; 742 cột điện bị gãy đổ khiến hơn 1,6 triệu khách hàng bị mất điện. Về nông nghiệp: 31.346ha lúa và 2.716ha hoa màu bị ngập, 2.252ha cây ăn quả bị hư hại, 19.122 cây xanh bị gãy đổ…
Vụ buôn lậu vàng trị giá 252 tỷ đồng: Nhiều chủ tiệm mua vàng lậu về bán
Một số chủ tiệm vàng do muốn có vàng nguyên liệu để chế tác, kinh doanh, thu lợi nhuận nên chủ động đặt hàng của Trí và Sa - đối tượng chủ mưu hai đường dây buôn lậu vàng trị giá 252 tỷ đồng...
Triệt phá nhiều đường dây “tín dụng đen” phức tạp
Cơ quan công an một số tỉnh thành đã triệt phá các đường dây cho vay nặng lãi như cho vay qua hình thức iCloud hoặc “núp bóng” tiệm sinh tố dưới hình thức “tiền góp, tiền đứng”…
Tập trung khắc phục hậu quả bão số 5, chủ động phòng ngừa mưa lũ sau bão
7h sáng 26/8, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp lần thứ 4 của Ban Chỉ đạo tiền phương ứng phó bão số 5 tại Quân khu 4, sau khi bão đã đổ bộ vào Hà Tĩnh và Nghệ An chiều tối 25/8, gây thiệt hại nặng nề...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: