Về Hải Dương, nhớ ghé thăm Văn miếu Mao Điền
Chỉ đứng sau Văn miếu Quốc Tử Giám, với hơn 500 năm tồn tại và thờ hơn 600 vị tiến sĩ, văn miếu Mao Điền đã trở thành niềm tự hào về truyền thống hiếu học của Hải Dương.

Chữ Mao Điền là tên địa phương, chữ Mao có nghĩa là cỏ, cỏ thơm, cỏ thi. Chữ Điền nghĩa là ruộng. Xưa kia nơi đây là khu ruộng rất rộng nhiều cỏ thơm, cỏ thi người ta đã chọn nơi này để làm trường thi Hương của trấn Hải Dương, đến thời Tây Sơn Văn miếu được di chuyển từ Vĩnh Lại về sáp nhập với trương thi Hương và lấy tên địa phương đặt tên cho di tích do vậy có tên gọi là Văn miếu Mao Điền.Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15km về phía Bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), văn miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, triều đình cho mở thêm một số trường học nữa ngoài trường Quốc Tử Giám ở kinh thành để đẩy mạnh phát triển Nho giáo. Ở xứ Đông (gồm toàn bộ tỉnh Hải Dương, thành phố Hải Phòng, huyện Đông Triều của Quảng Ninh) văn miếu Mao Điền được xây dựng vừa làm nơi thờ các bậc tiên hiền Nho học vừa làm trường thi của vùng.


Văn miếu xây dựng theo hướng nam gồm các hạng mục: nhà bái đường, hậu cung mỗi tòa bảy gian xây theo kiểu chữ Nhị, gác khuê văn, gác chuông, gác khánh, đài nghiên, tháp bút... Điện thờ chính bao gồm hai tòa nhà lớn bảy gian có mái cong vút, chạm trổ hình rồng, phượng sánh đôi. Nhà trong thờ Khổng Tử. Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả. Hai bên là hai dãy nhà năm gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng đông và tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là Đông vu, Tây vu.
Hai di vật cổ nhất của văn miếu Mao Điền là chiếc lư hương bằng đá trên bàn thờ công đồng và chiếc khánh đá từ thời Tây Sơn. Chiếc khánh đá trải qua năm tháng đã bị mẻ một bên tai nhưng có âm thanh trong trẻo và lạ tai. Đặc biệt hơn, khánh khi bị đánh ba tiếng liên tiếp sẽ phát ra ba âm thanh khác nhau. Phía trong hậu cung của văn miếu là nơi thờ chín bài vị của các danh nhân Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đỉnh Chi, trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, danh sĩ Phạm Sư Mạnh, nhà toán học Vũ Hữu, danh y Tuệ Tĩnh, nữ tiến sĩ đầu tiên của nước ta là bà Nguyễn Thị Duệ. Các hạng mục đều được quy hoạch cân đối và đẹp mắt.
Sách sử kể lại rằng ngày xưa việc tế lễ và học tập diễn ra rất đông vui. Hằng năm vào ngày đầu tháng Hai và ngày đầu tháng Tám, trấn Hải Dương tổ chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn, đầu phủ cùng cử nhân, tiến sĩ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống hiếu học và tôn sư, trọng đạo. Ngày nay, với những lầu gác đã rêu phong, du khách vẫn hình dung được vẻ trang trọng của nơi đại diện cho nền nho học một thời.

