5 năm sau cơn lũ khủng hoảng: Nước ở Việt Nam rút chậm hơn?
Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra. 5 năm sau cơn lũ, nước ở Việt Nam dường như rút chậm hơn
Tháng 9/2008 trở thành mốc khó quên trong lịch sử kinh tế thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra tại Mỹ rồi nhanh chóng lan rộng ảnh hưởng toàn cầu.
Ngày 15/9/2008, Lehman Brothers - ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố phá sản, đánh dấu sự bung vỡ chính thức của một cuộc khủng hoảng. Đó là cơn lũ làm nghiêng ngả nhiều nền kinh tế lớn, đã nhấn chìm nhiều định chế tài chính khổng lồ.
Việt Nam, niềm vui trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 chưa tày gang, tác động của cuộc khủng hoảng đã ập tới. Nhưng dường như khó khăn của nền kinh tế mới chỉ thực sự bộc lộ vài năm gần đây.
5 năm sau cơn lũ, nước ở Việt Nam dường như rút chậm hơn. Bởi đến nay tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thể phục hồi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bất ổn khi lạm phát và lãi suất cho vay cao, nợ xấu trở nên nhức nhối, thu nhập tăng chậm và đời sống người dân khó khăn…
VnEconomy điểm lại những nét chính của nền kinh tế trong 5 năm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này ở 11 chỉ tiêu cơ bản.
1. Chưa thể phục hồi
“Con hổ của châu Á” là cụm từ quen thuộc mà giới đầu tư quốc tế dành để nói về Việt Nam những năm 2006 - 2007, gắn với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng cùng triển vọng từ cánh cửa WTO vừa mở. Nhưng, ảnh hưởng khủng hoảng ập tới, sự đứt gãy đến ngay trong năm 2008. Đến năm 2010, hướng phục hồi gợi mở, nhiều nhận định đều chung lạc quan: những gì khó khăn nhất đã qua, hay nền kinh tế đã chạm đáy. Thế nhưng, năm 2011 và 2012, triển vọng phục hồi lại càng xấu đi. Đến nay, với những gì đã trải qua trong 2013, “tinh thần” tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu 5,5% dường như đã sẵn sàng.
2. Lạm phát bùng nổ
Đánh dấu năm đầu tiên chịu ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm phát tại Việt Nam bùng nổ trong năm 2008. Tình hình có vẻ nhanh chóng được kiểm soát trong năm 2009, nhưng ngay sau đó là cú hồi mã thương nhức nhối năm 2010 và 2011. Năm 2012 và dự tính cả 2013, lạm phát đã hạ nhiệt nhanh.
3. Lãi suất cho vay leo thang
Cuộc khủng hoảng nổ ra, Việt Nam nhanh chóng có ứng xử mà điển hình là gói kích cầu 1 tỷ USD qua bù lãi suất. Gói hỗ trợ này là tác động chính đối với lãi suất cho vay khá mềm trong năm 2009. Tuy nhiên, những năm sau đó lãi suất cho vay liên tục leo thang, đặc biệt là sự ngột ngạt năm 2011. Nửa cuối 2012 và đến 2013 lãi suất cho vay mới bắt đầu hạ nhiệt khi lạm phát được kiềm chế.
4. Điểm sáng xuất khẩu
Xuất khẩu là điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh của nền kinh tế trong 5 năm qua khủng hoảng. Sau năm 2009 suy giảm, đà phục hồi thể hiện rõ và vững trong những năm gần đây. Đặc biệt, sau nhiều năm triền miên nhập siêu, lần đầu tiên Việt Nam đã xuất siêu trong năm 2012. Qua 8 tháng 2013, tốc độ và cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu khá cân bằng và tương đối ổn định.
5. Tỷ lệ thất nghiệp “miễn dịch” với khủng hoảng
Nhìn vào số liệu thống kê, có vẻ như tình hình lao động việc làm tại Việt Nam đã “miễn dịch” với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thậm chí trong những năm khó khăn nhất sau khủng hoảng, 2011 và 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn cải thiện rõ nét. Điều này dường như mâu thuẫn với tình trạng phá sản của doanh nghiệp hay sa thải lao động nổi cộm những năm gần đây.
6. Thu nhập đầu người tăng khá
Thu nhập bình quân đầu người tăng khá cao trong 5 năm khủng hoảng, nhưng ngược lại là sự mất giá của đồng tiền khiến đời sống dân cư không hẳn có sự cải thiện tương ứng. Đồng VND mất giá khá mạnh so với USD trong giai đoạn này khiến thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD tăng chậm.
7. “Mặt bằng mới” của tăng trưởng tín dụng
Một “mặt bằng mới” - vùng trũng tăng trưởng tín dụng đang được thiết lập từ 2011, 2012 và triển vọng 2013. Một mặt nó gắn với định hướng điều hành chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát, mặt khác phản ánh trở ngại đã lớn dần từ nợ xấu, và là kết quả của cầu tín dụng yếu khi sản xuất kinh doanh khó khăn, nhiều doanh nghiệp suy yếu qua ảnh hưởng khủng hoảng và hàng tồn kho tăng cao.
8. Cải thiện dự trữ ngoại hối
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cú đảo chiều của vốn ngoại đã thể hiện rõ ở cân đối cán cân tổng thể, khi sụt giảm mạnh trong năm 2008 và thâm hụt năm 2009 và 2010. Đi cùng diễn biến này là dự trữ ngoại hối giảm mạnh từ năm 2009 và đặc biệt trong năm 2010. Tuy nhiên, cán cân tổng thể đã thặng dư trở lại trong năm 2011 và gần với mức kỷ lục (năm 2007) vào năm 2012. Dự báo năm nay trạng thái thặng dư có thể nối tiếp với khoảng 5 tỷ USD. Thuận lợi này giúp dự trữ ngoại hối nhà nước phục hồi nhanh và mạnh, dự tính đạt mức cao nhất trong lịch sử nửa đầu 2013.
9. Niềm tin đối với VND suy giảm
Có nhiều nguyên nhân, song ảnh hưởng khủng hoảng với cú đảo chiều vốn ngoại là yếu tố góp thêm sự căng thẳng, xáo trộn và biến động mạnh của tỷ giá USD/VND những năm 2010 - 2011. Phía sau đó là niềm tin đối với VND bị suy giảm. Nhưng với trạng thái thặng dư trở lại của cán cân tổng thể, cùng nhiều chính sách can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá USD/VND đã ổn định từ cuối 2011 cho đến nay.
10. Nhức nhối nợ xấu
Phải gần ba năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, khó khăn của hệ thống ngân hàng Việt Nam mới thực sự bộc lộ khi tỷ lệ nợ xấu bắt đầu tăng nhanh từ cuối 2010 đến đầu 2011. Từ 2012 đến nay, nợ xấu trở nên nhức nhối khi vượt xa ngưỡng 3% và hiện vẫn chưa cho thấy một sự dịu bớt rõ ràng và bền vững.
11. Doanh nghiệp thua lỗ ngày càng tăng
Là những đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng, nhưng dường như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ban đầu khá mờ nhạt, xét ở mức độ kinh doanh thua lỗ. Dữ liệu khảo sát hàng năm của Tổng cục Thống kê cho thấy, tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp chỉ thực sự tăng vọt từ năm 2011, đặc biệt là ở khối ngoài quốc doanh. Còn dữ liệu cập nhật gần nhất ở nguồn khác, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, trong quý 1/2012 có đến 70% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ.
Hiện chưa có các con số cập nhật mới, song có thể dự tính tình hình vẫn chưa có nhiều cải thiện cho đến nửa đầu năm nay.
Ngày 15/9/2008, Lehman Brothers - ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố phá sản, đánh dấu sự bung vỡ chính thức của một cuộc khủng hoảng. Đó là cơn lũ làm nghiêng ngả nhiều nền kinh tế lớn, đã nhấn chìm nhiều định chế tài chính khổng lồ.
Việt Nam, niềm vui trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 chưa tày gang, tác động của cuộc khủng hoảng đã ập tới. Nhưng dường như khó khăn của nền kinh tế mới chỉ thực sự bộc lộ vài năm gần đây.
5 năm sau cơn lũ, nước ở Việt Nam dường như rút chậm hơn. Bởi đến nay tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thể phục hồi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bất ổn khi lạm phát và lãi suất cho vay cao, nợ xấu trở nên nhức nhối, thu nhập tăng chậm và đời sống người dân khó khăn…
VnEconomy điểm lại những nét chính của nền kinh tế trong 5 năm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này ở 11 chỉ tiêu cơ bản.
1. Chưa thể phục hồi
Tăng trưởng GDP những năm gần đây (đơn vị: %), nguồn: Tổng cục Thống kê
“Con hổ của châu Á” là cụm từ quen thuộc mà giới đầu tư quốc tế dành để nói về Việt Nam những năm 2006 - 2007, gắn với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng cùng triển vọng từ cánh cửa WTO vừa mở. Nhưng, ảnh hưởng khủng hoảng ập tới, sự đứt gãy đến ngay trong năm 2008. Đến năm 2010, hướng phục hồi gợi mở, nhiều nhận định đều chung lạc quan: những gì khó khăn nhất đã qua, hay nền kinh tế đã chạm đáy. Thế nhưng, năm 2011 và 2012, triển vọng phục hồi lại càng xấu đi. Đến nay, với những gì đã trải qua trong 2013, “tinh thần” tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu 5,5% dường như đã sẵn sàng.
2. Lạm phát bùng nổ
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Đánh dấu năm đầu tiên chịu ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm phát tại Việt Nam bùng nổ trong năm 2008. Tình hình có vẻ nhanh chóng được kiểm soát trong năm 2009, nhưng ngay sau đó là cú hồi mã thương nhức nhối năm 2010 và 2011. Năm 2012 và dự tính cả 2013, lạm phát đã hạ nhiệt nhanh.
3. Lãi suất cho vay leo thang
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Cuộc khủng hoảng nổ ra, Việt Nam nhanh chóng có ứng xử mà điển hình là gói kích cầu 1 tỷ USD qua bù lãi suất. Gói hỗ trợ này là tác động chính đối với lãi suất cho vay khá mềm trong năm 2009. Tuy nhiên, những năm sau đó lãi suất cho vay liên tục leo thang, đặc biệt là sự ngột ngạt năm 2011. Nửa cuối 2012 và đến 2013 lãi suất cho vay mới bắt đầu hạ nhiệt khi lạm phát được kiềm chế.
4. Điểm sáng xuất khẩu
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Xuất khẩu là điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh của nền kinh tế trong 5 năm qua khủng hoảng. Sau năm 2009 suy giảm, đà phục hồi thể hiện rõ và vững trong những năm gần đây. Đặc biệt, sau nhiều năm triền miên nhập siêu, lần đầu tiên Việt Nam đã xuất siêu trong năm 2012. Qua 8 tháng 2013, tốc độ và cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu khá cân bằng và tương đối ổn định.
5. Tỷ lệ thất nghiệp “miễn dịch” với khủng hoảng
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị (đơn vị: %), nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhìn vào số liệu thống kê, có vẻ như tình hình lao động việc làm tại Việt Nam đã “miễn dịch” với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thậm chí trong những năm khó khăn nhất sau khủng hoảng, 2011 và 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn cải thiện rõ nét. Điều này dường như mâu thuẫn với tình trạng phá sản của doanh nghiệp hay sa thải lao động nổi cộm những năm gần đây.
6. Thu nhập đầu người tăng khá
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Thu nhập bình quân đầu người tăng khá cao trong 5 năm khủng hoảng, nhưng ngược lại là sự mất giá của đồng tiền khiến đời sống dân cư không hẳn có sự cải thiện tương ứng. Đồng VND mất giá khá mạnh so với USD trong giai đoạn này khiến thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD tăng chậm.
7. “Mặt bằng mới” của tăng trưởng tín dụng
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Một “mặt bằng mới” - vùng trũng tăng trưởng tín dụng đang được thiết lập từ 2011, 2012 và triển vọng 2013. Một mặt nó gắn với định hướng điều hành chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát, mặt khác phản ánh trở ngại đã lớn dần từ nợ xấu, và là kết quả của cầu tín dụng yếu khi sản xuất kinh doanh khó khăn, nhiều doanh nghiệp suy yếu qua ảnh hưởng khủng hoảng và hàng tồn kho tăng cao.
8. Cải thiện dự trữ ngoại hối
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cú đảo chiều của vốn ngoại đã thể hiện rõ ở cân đối cán cân tổng thể, khi sụt giảm mạnh trong năm 2008 và thâm hụt năm 2009 và 2010. Đi cùng diễn biến này là dự trữ ngoại hối giảm mạnh từ năm 2009 và đặc biệt trong năm 2010. Tuy nhiên, cán cân tổng thể đã thặng dư trở lại trong năm 2011 và gần với mức kỷ lục (năm 2007) vào năm 2012. Dự báo năm nay trạng thái thặng dư có thể nối tiếp với khoảng 5 tỷ USD. Thuận lợi này giúp dự trữ ngoại hối nhà nước phục hồi nhanh và mạnh, dự tính đạt mức cao nhất trong lịch sử nửa đầu 2013.
9. Niềm tin đối với VND suy giảm
Mức tăng, giảm bình quân trong năm của tỷ giá USD/VND (đơn vị:%), nguồn: Tổng cục Thống kê
Có nhiều nguyên nhân, song ảnh hưởng khủng hoảng với cú đảo chiều vốn ngoại là yếu tố góp thêm sự căng thẳng, xáo trộn và biến động mạnh của tỷ giá USD/VND những năm 2010 - 2011. Phía sau đó là niềm tin đối với VND bị suy giảm. Nhưng với trạng thái thặng dư trở lại của cán cân tổng thể, cùng nhiều chính sách can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá USD/VND đã ổn định từ cuối 2011 cho đến nay.
10. Nhức nhối nợ xấu
Nguồn dữ liệu: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Phải gần ba năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, khó khăn của hệ thống ngân hàng Việt Nam mới thực sự bộc lộ khi tỷ lệ nợ xấu bắt đầu tăng nhanh từ cuối 2010 đến đầu 2011. Từ 2012 đến nay, nợ xấu trở nên nhức nhối khi vượt xa ngưỡng 3% và hiện vẫn chưa cho thấy một sự dịu bớt rõ ràng và bền vững.
11. Doanh nghiệp thua lỗ ngày càng tăng
Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ (đơn vị: %), nguồn: xử lý dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê
Là những đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng, nhưng dường như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ban đầu khá mờ nhạt, xét ở mức độ kinh doanh thua lỗ. Dữ liệu khảo sát hàng năm của Tổng cục Thống kê cho thấy, tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp chỉ thực sự tăng vọt từ năm 2011, đặc biệt là ở khối ngoài quốc doanh. Còn dữ liệu cập nhật gần nhất ở nguồn khác, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, trong quý 1/2012 có đến 70% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ.
Hiện chưa có các con số cập nhật mới, song có thể dự tính tình hình vẫn chưa có nhiều cải thiện cho đến nửa đầu năm nay.