Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể báo cáo giải pháp xử lý các vấn đề của BOT
Theo Bộ trưởng, chính sách phí (nay là giá dịch vụ sử dụng đường bộ) còn bất cập, còn có nhiều cách hiểu khác nhau
Công tác tuyên truyền và công khai thông tin cần được thực hiện một cách hiệu quả hơn nữa, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể nêu giải pháp xử lý các tồn tại của các dự án BOT.
Theo nghị trình của kỳ họp thứ 5, sáng 4/6 ông Thể lần đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Nằm trong nhóm vấn đề chất vấn Bộ trưởng có giải pháp xử lý những vấn đề tồn tại đối với các dự án giao thông đầu tư theo hình thức xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT).
Báo cáo về các vấn đề liên quan đến nhóm nội dung chất vấn thuộc lĩnh vực của Bộ đã được Bộ trưởng gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Theo báo cáo, đến nay Bộ Giao thông Vận tải đã huy động được 70 dự án đầu tư theo hình thức BOT với tổng mức đầu tư khoảng 209.347 tỷ đồng. Trong đó lĩnh vực đường bộ 68 dự án với tổng mức đầu tư 207.987 tỷ đồng, lĩnh vực đường thủy nội địa 1 dự án với tổng mức đầu tư 1.303 tỷ đồng, lĩnh vực đào tạo 1 dự án với tổng mức đầu tư 57 tỷ đồng.
58 dự án đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác với tổng mức đầu tư là 166.154 tỷ đồng. Các dự án cơ bản đảm bảo chất lượng, khai thác an toàn, doanh thu tài chính cơ bản phù hợp với số liệu tính toán trong phương án tài chính của hợp đồng dự án. Còn lại 12 dự án đang được triển khai với tổng mức đầu tư là 43.193 tỷ đồng.
Còn nhiều cách hiểu về phí và giá
Đánh giá các tồn tại, bất cập của các dự án BOT, Bộ trưởng nêu, việc nâng cấp, cải tạo công trình hiện hữu là lĩnh vực được Chính phủ khuyến khích đầu tư tại nghị định số 108/2009/NĐ-CP, phù hợp với quy định pháp luật, giải quyết được khó khăn về nguồn vốn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, việc đầu tư các dự án này hạn chế sự lựa chọn của người sử dụng.
Việc kiểm soát chi phí đầu tư chưa chặt chẽ, còn tồn tại, sai sót trong quá trình thẩm định, phê duyệt tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình.
Hầu hết các dự án đều áp dụng hình thức chỉ định thầu nhà đầu tư. Mặc dù quy định của pháp luật cho phép và việc chỉ định thầu cơ bản tuân thủ đúng quy định pháp luật, tuy nhiên việc chỉ định thầu đã hạn chế tính cạnh tranh.
Việc công bố danh mục kêu gọi đầu tư, đăng thông tin kết quả lựa chọn Nhà đầu tư chưa chặt chẽ... dẫn đến trong dư luận nghi ngờ về tính minh bạch. Chưa có giải pháp quản lý hiệu quả về doanh thu thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ dẫn đến dư luận còn nghi ngờ về tính minh bạch trong việc quản lý doanh thu là hạn chế tiếp theo được nêu tại báo cáo.
Theo Bộ trưởng, chính sách phí (nay là giá dịch vụ sử dụng đường bộ) còn bất cập, còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Như, thông tư của Bộ Tài chính quy định khoảng cách giữa các trạm trên cùng tuyến đường có thể dưới 70 km nếu được Bộ Tài chính, địa phương thống nhất nhưng dư luận cho rằng khoảng cách dưới 70 km là vi phạm pháp luật.
Giá dịch vụ sử dụng đường bộ chưa đảm bảo công bằng cho các phương tiện khu vực xung quanh trạm và một số phương tiện sử dụng các tuyến đường ngang đi qua trạm, sử dụng quãng đường ngắn. Một số trạm trước đây thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ hoàn vốn ngân sách nhà nước được tận dụng lại để chuyển sang thu hoàn vốn cho các dự án BOT, vị trí nằm ngoài phạm vi dự án gây bức xúc cho người sử dụng...
Hạn chế khác được Bộ trưởng nhìn nhận là công tác tuyên truyền chưa tốt, chưa nhận được đồng thuận và có cách hiểu khác nhau trong xã hội đối với các công trình giao thông đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT.
Hai phương án cho Cai Lậy
Về giải pháp xử lý bất cập, tồn tại, Bộ trưởng cho biết, trên cơ sở giá trị quyết toán, lưu lượng thực tế, Bộ Giao thông Vận tải đã tính toán lại thời gian thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, đa số các dự án giá đều giảm so với hợp đồng, một số dự án phải kéo dài thời gian thu giá sử dụng dịch vụ đường bộ do lưu lượng thực tế thấp hơn so với dự báo.
Để quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch công tác thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng, ban hành thông tư số 49/2016/TT-BGTVT ngày 30/12/2016 quy định về xây dựng, tổ chức và hoạt động của trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ.
Về công nghệ, ông Thể cho biết Bộ đã tích cực triển khai hệ thống thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức tự động không dừng, đảm bảo đến năm 2019 tại tất cả các trạm đều có cửa áp dụng công nghệ thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức này.
Với các giải pháp đồng bộ này, việc kiểm soát doanh thu tài chính của dự án sẽ đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, tốc độ lưu thông qua các trạm thu phí sẽ được cải thiện.
Liên quan đến vị trí trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ, báo cáo đưa ra nhiều con số và cách xử lý chi tiết với nhiều trạm có những bất cập về vị trí, trong đó có Cai Lậy, dự án điển hình về lùm xùm liên quan đến BOT.
Theo đó, Bộ đã tập trung nghiên cứu 2 phương án. Một là giữ nguyên vị trí trạm như hiện nay, thực hiện giảm giá chung cho tất cả các phương tiện và mở rộng tối đa phạm vi giảm giá cho người dân quanh trạm. Phương án 2 là xây dựng thêm 1 trạm ở trên tuyến tránh, thu trên cả 2 trạm, phương tiện đi trên tuyến nào, doanh thu sẽ hoàn vốn cho tuyến đó.
Trên cơ sở 2 phương án nêu trên, Bộ Giao thông Vận tải và Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang sẽ thống nhất với các bộ, ngành rà soát, lựa chọn phương án triển khai theo chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ trưởng thông tin.
Vẫn theo báo cáo thì Bộ đã cơ bản rà soát điều chỉnh giá dịch vụ sử dụng đường bộ của 56 dự án BOT đã có giá trị quyết toán.
Về chủ trương đầu tư dự án BOT trên đường hiện hữu, thông tin từ báo cáo là Bộ đã đàm phán để dừng 4 dự án BOT đã ký hợp đồng và đang triển khai (3 dự án đường bộ và 1 dự án xây dựng ký túc xá Trường Đại học Giao thông vận tải Tp.HCM). dừng 10 dự án đã phê duyệt đề xuất dự án hoặc đang lập báo cáo nghiên cứu khả thi (8 dự án đường bộ và 2 dự án đường thuỷ nội địa).
Vẫn trong phần giải pháp, Bộ trưởng nhấn mạnh, công tác tuyên truyền và công khai thông tin cần được thực hiện một cách hiệu quả hơn nữa. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ chủ yếu của các cơ quan quản lý nhà nước để xã hội có được sự đồng thuận hơn về một chủ trương lớn của Đảng, đồng thời cũng là giải pháp tất yếu trong điều kiện nguồn lực khó khăn như hiện nay.