Khâu chế biến rất quan trọng trong chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu, tuy vậy phần lớn vẫn chủ yếu sử dụng thiết bị, công nghệ kỹ thuật lạc hậu. Về cơ cấu mặt hàng chế biến, chủ yếu vẫn là sản phẩm sơ chế có giá trị gia tăng thấp chiếm 70-85%. Tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu có giá trị gia tăng cao chỉ chiếm khoảng 15-30% (tùy từng ngành hàng)…
Chế biến là khâu quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản
Thực tế trên được nêu ra tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về “Định hướng công tác chất lượng, chế biến gắn với phát triển thị trường nông lâm sản, thủy sản” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức cuối tuần qua tại Đà Nẵng.
TỶ TRỌNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN SÂU CÒN THẤP
Tính đến ngày 15/6/2023, cả nước có khoảng 13.000 cơ sở chế biến nông sản. Bao gồm: 614 cơ sở giết mổ tập trung, 5.229 cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến thực phẩm nông, lâm, thủy sản (đa ngành); 3.369 cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm có nguồn gốc thực vật, gần 4.000 cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm có nguồn gốc động vật trên cạn.
Theo ông Ngô Hồng Phong, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, dù số lượng cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản của nước ta hiện nay khá lớn, song trình độ chế biến chỉ mới ở mức trung bình và nhỏ. Hơn nữa, việc chế biến còn phụ thuộc vào mùa vụ nên phần lớn các nhà máy chưa hoạt động hết công suất, có thời điểm chưa tiêu thụ hết sản phẩm khi vào mùa vụ, nên vẫn còn xảy ra tình trạng được mùa mất giá.
Trong nhiều mặt hàng nông sản, tỷ lệ chế biến, chế biến sâu còn hạn chế, như cà phê chỉ chiếm khoảng 15%, rau quả 10% (còn lại tiêu thụ tươi), điều và tiêu 10-15%. Tuy nhiên, vẫn có những nông sản có tỷ lệ chế biến cao như lúa gạo 55-60%, chè 40%, điều 80%, mía đường 73%, hồ tiêu 56%...
Về cơ sở chế biến lâm sản quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu, hiện cả nước có hơn 4.500 cơ sở, chế biến khoảng hơn 40 triệu m3 gỗ mỗi năm. Cơ cấu sản phẩm gỗ hiện nay gồm có: đồ nội thất (chủ yếu xuất khẩu) chiếm khoảng 66%; gỗ (dăm gỗ, gỗ tròn, gỗ xẻ, dăm gỗ, ván dán) chiếm khoảng 22%, còn lại là lâm sản ngoài gỗ (mây, tre, quế, hồi…).
Đối với chế biến thủy sản, hiện tổng số cơ sở chế biến thủy sản quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu là hơn 850 cơ sở; tổng số cơ sở quy mô nhỏ phục vụ tiêu thụ nội địa khoảng 3.500 cơ sở. Tổng sản phẩm thủy sản chế biến đạt khoảng 3 triệu tấn/năm (tương đương khoảng 6 triệu tấn nguyên liệu/năm). Sản phẩm thủy sản chủ yếu gồm: thủy sản đông lạnh chiếm 80%; thủy sản khô chiếm 7%; sản phẩm dạng mắm chiếm 5%; sản phẩm khác chiếm 8%. Giá trị sản phẩm chế biến tăng bình quân về giá trị đạt 5,1%/năm.
Nhiều nhà máy chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô lớn đã được đầu tư, lắp đặt dây chuyền thiết bị công nghệ hiện đại. Riêng giai đoạn 2017-2022, có 76 dự án lớn về chế biến nông sản với số vốn đầu tư trên 73.000 tỷ đồng đã được khởi công xây dựng, nhiều cơ sở đã hoàn thành bước vào sản xuất. Điều đó cho thấy mức độ quan tâm đầu tư và xu hướng phát triển công nghiệp chế biến nông sản trong những năm gần đây.
XỬ LÝ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG XUẤT KHẨU
Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tập trung xử lý vướng mắc trong xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam.
Cụ thể là, đáp ứng quy định của Liên minh châu Âu về phòng chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU); quy định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ về đánh giá, công nhận tương đương Chương trình giám sát cá da trơn; lệnh đình chỉ nhập khẩu của Ảrập Xêút đối với sản phẩm thủy sản Việt Nam. Quy định của Braxin về đăng ký sản phẩm cá nhập khẩu cũng như không cho phép sử dụng phụ gia muối phốt phát; những điều kiện khắt khe của Úc đối với sản phẩm tôm nhập khẩu; Quy định 248, 249 của Trung Quốc…
Tuy đã có nhiều nỗ lực, nhưng ông Phong cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm soát chất lượng nông sản và thúc đẩy chế biến nông sản. Đến nay, mới chỉ khoảng 10-15% sản lượng sản phẩm nông sản chủ lực, đặc sản duy trì kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm tại từng công đoạn và trong toàn chuỗi.
Tỷ lệ lô hàng xuất khẩu bị trả về tuy giảm nhưng còn ở mức cao. Nguyên nhân do liên kết ngang giữa các hộ sản xuất cũng như liên kết dọc với cơ sở thu mua, sơ chế, giết mổ, chế biến, kinh doanh hiện nay còn rất lỏng lẻo, thiếu bền vững.
Nhận định về năng lực chế biến, ông Phong cho rằng chưa đáp ứng tiêu thụ hết các phẩm cấp sản phẩm nông sản sản xuất ra khi vào vụ. Số cơ sở chế biến phát triển chênh lệch giữa các vùng miền và chưa gắn với nguồn nguyên liệu. Về trình độ công nghệ chế biến, số cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản có quy mô vừa và nhỏ, hộ gia đình hiện nay vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn, khoảng 95% tổng số cơ sở chế biến. Phần lớn các cơ sở chế biến vẫn chủ yếu sử dụng thiết bị cũ, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, năng suất thấp.
Công tác bảo quản sau thu hoạch vẫn là khâu yếu, khiến tổn thất sau thu hoạch còn lớn, lên tới 10-20% (tùy lĩnh vực ngành hàng). Về logistics trong chế biến và tiêu thụ nông sản: chuỗi cung ứng lạnh còn thiếu và yếu chưa đáp ứng các ngành hàng và các thị trường khác nhau.
Nhằm thúc đẩy chế biến gắn với phát triển thị trường nông, lâm, thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra định hướng trong giai đoạn 2023-2025, sẽ đẩy mạnh tổ chức sản xuất tập trung các sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực địa phương theo chuỗi giá trị gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao. Triển khai xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm. Tổ chức cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi bảo đảm truy xuất nguồn gốc; mã cơ sở đóng gói, nhãn mác hàng nông sản. Đồng thời, tăng cường tổ chức các hoạt động giao thương, quảng bá, kết nối xuất khẩu tại các khu vực thị trường đang duy trì tốt đà tăng trưởng như Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN; tham dự các sự kiện quốc tế lớn tại các thị trường tiềm năng là Italia, Anh, Trung Đông…
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 27-2023 phát hành ngày 03-07-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Aristino lan tỏa tinh thần dân tộc qua thời trang và trách nhiệm xã hội
Mừng đại lễ, thương hiệu thời trang Aristino không chỉ mang đến những sản phẩm chất lượng mà còn lan tỏa tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc qua loạt hoạt động ý nghĩa, thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng và xã hội.
Ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết Quốc hội về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) tổ chức đàm phán hoàn tất các quy trình, thủ tục và tiến hành, ký kết điều ước quốc tế với các đối tác về hợp tác đầu tư xây dựng 2 dự án. Phấn đấu hoàn thành trong tháng 9/2025 đối với dự án Ninh Thuận 1 và tháng 12/2025 đối với dự án Ninh Thuận 2…
Sản xuất hữu cơ: Hướng đi bền vững của ngành chè Việt Nam
Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, các chuyên gia cho rằng để cải thiện kết quả xuất khẩu, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy sản xuất theo quy trình hữu cơ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường bền vững…
Thịt trâu thải loại, giá rẻ từ Ấn Độ nhập khẩu về Việt Nam ngày càng nhiều
Theo số liệu từ Cục Hải Quan, trong nửa đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu tới 103 nghìn tấn thịt trâu từ Ấn Độ, tăng 14,2% về khối lượng với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói, thịt trâu Ấn Độ vốn từ giống trâu Murrah chuyên nuôi để lấy sữa, thịt không ngon, nhưng lại bán chạy ở Việt Nam…
Bão số 5 áp sát, các tỉnh Bắc Trung Bộ lệnh cấm biển
Trước diễn biến phức tạp của bão số 5 (Kajiki) với gió giật cấp 13 - 14 và mưa lớn diện rộng, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã đồng loạt ban hành lệnh cấm biển, khẩn trương kêu gọi tàu thuyền vào nơi tránh trú an toàn, vận hành xả lũ hồ chứa và triển khai phương châm “4 tại chỗ” nhằm chủ động ứng phó.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: