Cho vay đầu tư chứng khoán: Đã hết “cửa” vay tiếp?
Theo những thông tin từ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cơ hội cầm cố chứng khoán để vay vốn “chơi” tiếp gần như không còn

Theo những thông tin từ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cơ hội cầm cố chứng khoán để vay vốn “chơi” tiếp gần như không còn.
>>Theo dòng sự kiện
Hiện có tới 12 ngân hàng đã có dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán vượt hạn mức 3% tổng dư nợ mà Ngân hàng Nhà nước mới đưa ra. Trả lời VnEconomy, Thống đốc Lê Đức Thuý cho biết tỷ lệ bình quân dư nợ cho vay loại này ở các ngân hàng trên khoảng 7%.
Thưa Thống đốc, Chỉ thị 03 vừa qua của Ngân hàng Nhà nước có phải là một biện pháp can thiệp thị trường và hoạt động của các ngân hàng thương mại bằng hành chính không?
Theo nghĩa nào đó là đúng, vì ra lệnh “không được phép” là một can thiệp hành chính. Nhưng để quản lý Nhà nước thì không phải lúc nào cũng bảo là không can thiệp hành chính, nếu để cho nền kinh tế thị trường tự điều tiết thì khỏi cần đến quản lý Nhà nước.
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh có điều kiện, vì vậy, để đảm bảo ổn định vĩ mô và hệ thống của các hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng thì có những biện pháp mang tính hành chính nhưng có cơ sở kinh tế của nó chứ không phải duy ý chí.
Những năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước đang dần trao quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại. Vậy biện pháp can thiệp hành chính đó có mâu thuẫn với quyền tự chủ đó không?
Đúng là về nguyên tắc cũng như hoạt động của các doanh nghiệp là tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm. Nhưng những yêu cầu có tính chất để đảm bảo an toàn hệ thống thì anh không phải vì tự chủ kinh doanh mà không chịu những ràng buộc nhất định. Cho nên tùy tình thế kinh tế mà cơ quan quản lý có thể đưa ra, hoặc là những biện pháp cảnh báo, hoặc là những biện pháp kinh tế và kể cả những biện pháp hành chính để giữ cho hệ thống này ổn định.
Tôi nghĩ là về nguyên tắc thì không ai nói rằng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc các cơ quan quản lý không áp dụng những biện pháp hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động doanh nghiệp.
Vậy tại sao lại là hạn mức 3% và tỷ lệ này trong từng thời kỳ sẽ như thế nào?
Thời gian qua có những ý kiến khác nhau. Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ cũng đã phải họp để đánh giá xem chủ trương đó đúng hay không đúng, có tác động gì.
Tôi xin khẳng định một điều là Ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương đó là căn cứ vào những chỉ đạo lâu nay của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát rất chặt chẽ luồng vốn tín dụng từ các ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán, để bảo đảm thị trường này phát triển bền vững.
Ngân hàng Nhà nước đã thi hành một loạt biện pháp như cảnh báo về những rủi ro; đưa mức dự phòng rủi ro trong cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán lên 150%; đã nghiêm cấm các tổ chức tín dụng cho vay đầu tư chứng khoán thông qua công ty chứng khoán của mình nhưng tất cả những nỗ lực ấy chưa đem lại sự giảm sút đáng kể trong nguồn vốn tín dụng đổ vào thị trường chứng khoán.
Theo thống kê chúng tôi nắm được so với đầu năm thì cho vay chứng khoán theo nghĩa cầm cố chứng khoán để tiếp tục đầu tư chứng khoán của cả hệ thống chiếm 2,6% tổng dư nợ. Đến thời điểm tháng 5 vừa rồi mới chỉ giảm 0,1%, còn 2,5%. Tức là tác dụng của những biện pháp trên vẫn chưa đủ mạnh.
Một chuyên gia trên thế giới trong một bài viết có nói rằng Việt Nam là quốc gia duy nhất cho phép ngân hàng cho vay cầm cố chứng khoán để đi đầu tư chứng khoán; các nước trên thế giới hầu hết cũng không bao giờ cho các ngân hàng dính vào việc cho vay chứng khoán trực tiếp. Các khuyến cáo cũng cho rằng nên hạn chế tối đa sự dính dáng trực tiếp của ngân hàng vào đầu tư chứng khoán theo cách cầm cố chứng khoán để cho vay đầu tư chứng khoán, như là một vòng tiếp nối liên tục.
Về hình thức, một số tổ chức tín dụng tưởng rằng việc đó không vấn đề gì khi giá lên 10 lần tôi chỉ cho vay có 5 và người ta cũng từng ru ngủ mình vì điều đó. Nhưng về mặt quản lý vĩ mô sẽ thấy điều gì xẩy ra nếu cổ phiếu của người vay, qua một chu trình vay không bán được, như cổ phiếu trên OTC hiện nay là hàng trăm cổ phiếu bị đóng băng, muốn bán không bán cho ai được; lúc bấy giờ anh cho vay nhiều, dự phòng không đủ rủi ro có thể gây sụp đổ một ngân hàng nếu anh cho vay tỷ lệ này quá nhiều. Và từ sự sụp đổ của một ngân hàng có thể gây sụp đổ cả một hệ thống.
Cho nên, với trách nhiệm của người quản lý chịu trách nhiệm trước nhà nước về sự an toàn của hệ thống ngân hàng thì chúng tôi phải thấy trước những rủi ro tiềm ẩn. Tôi không hy vọng cũng không mong muốn điều đó xẩy ra nhưng phải ngăn chặn trước để đừng để điều đó xẩy ra.
Giữa những năm 90, hệ thống ngân hàng sa vào khủng hoảng, mười mấy ngân hàng mất khả năng thanh toán và bị thanh lý, nó gắn với việc cho phép mở L/C trả chậm, thế chấp bằng bất động sản và nghĩ rằng thế chấp bất động sản bằng 50 – 70% giá thị trường trong khi giá bất động sản đang lên thì không có gì rủi ro cả, nhưng đến khi thị trường bất động sản đóng băng và sụp xuống thì một loạt các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, có những hậu quả đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Đó là lý do vì sao phải ngăn chặn hoạt động cho vay này. Đúng ra mà nói là chúng ta hiểu vấn đề sớm và có biện pháp từ đầu để không cho vay là tốt nhất, nhưng bây giờ đã để cho vay rồi thì phải có biện pháp hãm dần và đưa ra tỷ lệ 3%.
Theo thông tin mà chúng tôi kiểm tra trước khi ban hành chỉ thị, thì có 12 ngân hàng đã cho vay cao hơn mức 3% ấy. Tỷ lệ này tính bình quân chung của các ngân hàng cổ phần là khoảng 7%, còn với các ngân hàng quốc doanh thì rất nhỏ vì quy mô ngân hàng lớn; các ngân hàng nước ngoài thì càng không dính dáng đến chuyện này.
Như vậy 3% là một tỷ lệ căn cứ theo thực tế hiện nay có thể chấp nhận được để kiểm soát hoạt động cho vay này. Còn những trường hợp chưa cho vay đến mức ấy thì thế nào? Họ tự hành xử. Còn những ngân hàng đã cho vay nhiều hơn thì thế nào? Chúng tôi cũng đang chuẩn bị một quyết định để hướng dẫn và có một thời hạn để các ngân hàng đã cho vay vượt quá hạn mức đó rút dần dư nợ, đưa về tỷ lệ cho phép chứ không phải áp dụng ngay lập tức bởi vì các hợp đồng tín dụng đã ký với khách hàng thì phải đến đáo hạn mới được thu hồi.
Dự kiến đến cuối năm nay các ngân hàng có thể sẽ thu hồi vốn về theo hạn mức. Họ phải căn cứ vào thực tế để yêu cầu khi đáo hạn thì thu nợ chứ không được cho vay tiếp.
Ngân hàng Nhà nước có tính đến việc đưa ra chỉ thị trên sẽ tạo áp lực đối với các khách hàng của ngân hàng, buộc họ phải bán cổ phiếu ra để thu tiền trả nợ, gây ra sự sụt giá trên thị trường chứng khoán không?
Về áp lực đối với khách hàng, tôi phải nói thế này, khi khách hàng đã ký kết hợp đồng tín dụng thì giữa họ với ngân hàng là căn cứ theo hợp đồng tín dụng vay vốn và thời hạn trên hợp đồng để giải quyết nợ, không có chuyện là Ngân hàng Nhà nước đưa ra chỉ thị và các ngân hàng gọi anh đến yêu cầu trả nợ ngay là không có.
Như vậy áp lực chỉ có ở những người có ý đồ lâu dài dùng vốn vay ngân hàng để đi chơi chứng khoán chứ không phải đối với những người đã vay rồi. Còn đã vay thì đến hạn trả nợ là đương nhiên, và có thể anh không còn được vay tiếp. Không có ngân hàng nào cam kết là anh vay tôi đi rồi đến hạn trả nợ tôi lại cho anh vay tiếp. Cho nên không thể nói đến áp lực ở đây theo nghĩa ấy được.
Thống đốc có thể cho biết ngân hàng nào đang có tỷ lệ này cho vay cao nhất?
Đây là vấn đề nhạy cảm tôi không công bố được. Có những ngân hàng nhỏ cho vay vượt rất xa tỷ lệ 3%. Đó cũng là một lo lắng có tính chất hệ thống bởi vì ngân hàng đó tự nghĩ là mình không rủi ro nhưng nếu rủi ro đến thì có thể sẽ tạo dây chuyển trong hoạt động ngân hàng, vì vậy đó là lý do rất chính đáng để có tỷ lệ 3% này.
>>Theo dòng sự kiện
Hiện có tới 12 ngân hàng đã có dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán vượt hạn mức 3% tổng dư nợ mà Ngân hàng Nhà nước mới đưa ra. Trả lời VnEconomy, Thống đốc Lê Đức Thuý cho biết tỷ lệ bình quân dư nợ cho vay loại này ở các ngân hàng trên khoảng 7%.
Thưa Thống đốc, Chỉ thị 03 vừa qua của Ngân hàng Nhà nước có phải là một biện pháp can thiệp thị trường và hoạt động của các ngân hàng thương mại bằng hành chính không?
Theo nghĩa nào đó là đúng, vì ra lệnh “không được phép” là một can thiệp hành chính. Nhưng để quản lý Nhà nước thì không phải lúc nào cũng bảo là không can thiệp hành chính, nếu để cho nền kinh tế thị trường tự điều tiết thì khỏi cần đến quản lý Nhà nước.
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh có điều kiện, vì vậy, để đảm bảo ổn định vĩ mô và hệ thống của các hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng thì có những biện pháp mang tính hành chính nhưng có cơ sở kinh tế của nó chứ không phải duy ý chí.
Những năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước đang dần trao quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại. Vậy biện pháp can thiệp hành chính đó có mâu thuẫn với quyền tự chủ đó không?
Đúng là về nguyên tắc cũng như hoạt động của các doanh nghiệp là tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm. Nhưng những yêu cầu có tính chất để đảm bảo an toàn hệ thống thì anh không phải vì tự chủ kinh doanh mà không chịu những ràng buộc nhất định. Cho nên tùy tình thế kinh tế mà cơ quan quản lý có thể đưa ra, hoặc là những biện pháp cảnh báo, hoặc là những biện pháp kinh tế và kể cả những biện pháp hành chính để giữ cho hệ thống này ổn định.
Tôi nghĩ là về nguyên tắc thì không ai nói rằng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc các cơ quan quản lý không áp dụng những biện pháp hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động doanh nghiệp.
Vậy tại sao lại là hạn mức 3% và tỷ lệ này trong từng thời kỳ sẽ như thế nào?
Thời gian qua có những ý kiến khác nhau. Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ cũng đã phải họp để đánh giá xem chủ trương đó đúng hay không đúng, có tác động gì.
Tôi xin khẳng định một điều là Ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương đó là căn cứ vào những chỉ đạo lâu nay của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát rất chặt chẽ luồng vốn tín dụng từ các ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán, để bảo đảm thị trường này phát triển bền vững.
Ngân hàng Nhà nước đã thi hành một loạt biện pháp như cảnh báo về những rủi ro; đưa mức dự phòng rủi ro trong cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán lên 150%; đã nghiêm cấm các tổ chức tín dụng cho vay đầu tư chứng khoán thông qua công ty chứng khoán của mình nhưng tất cả những nỗ lực ấy chưa đem lại sự giảm sút đáng kể trong nguồn vốn tín dụng đổ vào thị trường chứng khoán.
Theo thống kê chúng tôi nắm được so với đầu năm thì cho vay chứng khoán theo nghĩa cầm cố chứng khoán để tiếp tục đầu tư chứng khoán của cả hệ thống chiếm 2,6% tổng dư nợ. Đến thời điểm tháng 5 vừa rồi mới chỉ giảm 0,1%, còn 2,5%. Tức là tác dụng của những biện pháp trên vẫn chưa đủ mạnh.
Một chuyên gia trên thế giới trong một bài viết có nói rằng Việt Nam là quốc gia duy nhất cho phép ngân hàng cho vay cầm cố chứng khoán để đi đầu tư chứng khoán; các nước trên thế giới hầu hết cũng không bao giờ cho các ngân hàng dính vào việc cho vay chứng khoán trực tiếp. Các khuyến cáo cũng cho rằng nên hạn chế tối đa sự dính dáng trực tiếp của ngân hàng vào đầu tư chứng khoán theo cách cầm cố chứng khoán để cho vay đầu tư chứng khoán, như là một vòng tiếp nối liên tục.
Về hình thức, một số tổ chức tín dụng tưởng rằng việc đó không vấn đề gì khi giá lên 10 lần tôi chỉ cho vay có 5 và người ta cũng từng ru ngủ mình vì điều đó. Nhưng về mặt quản lý vĩ mô sẽ thấy điều gì xẩy ra nếu cổ phiếu của người vay, qua một chu trình vay không bán được, như cổ phiếu trên OTC hiện nay là hàng trăm cổ phiếu bị đóng băng, muốn bán không bán cho ai được; lúc bấy giờ anh cho vay nhiều, dự phòng không đủ rủi ro có thể gây sụp đổ một ngân hàng nếu anh cho vay tỷ lệ này quá nhiều. Và từ sự sụp đổ của một ngân hàng có thể gây sụp đổ cả một hệ thống.
Cho nên, với trách nhiệm của người quản lý chịu trách nhiệm trước nhà nước về sự an toàn của hệ thống ngân hàng thì chúng tôi phải thấy trước những rủi ro tiềm ẩn. Tôi không hy vọng cũng không mong muốn điều đó xẩy ra nhưng phải ngăn chặn trước để đừng để điều đó xẩy ra.
Giữa những năm 90, hệ thống ngân hàng sa vào khủng hoảng, mười mấy ngân hàng mất khả năng thanh toán và bị thanh lý, nó gắn với việc cho phép mở L/C trả chậm, thế chấp bằng bất động sản và nghĩ rằng thế chấp bất động sản bằng 50 – 70% giá thị trường trong khi giá bất động sản đang lên thì không có gì rủi ro cả, nhưng đến khi thị trường bất động sản đóng băng và sụp xuống thì một loạt các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, có những hậu quả đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Đó là lý do vì sao phải ngăn chặn hoạt động cho vay này. Đúng ra mà nói là chúng ta hiểu vấn đề sớm và có biện pháp từ đầu để không cho vay là tốt nhất, nhưng bây giờ đã để cho vay rồi thì phải có biện pháp hãm dần và đưa ra tỷ lệ 3%.
Theo thông tin mà chúng tôi kiểm tra trước khi ban hành chỉ thị, thì có 12 ngân hàng đã cho vay cao hơn mức 3% ấy. Tỷ lệ này tính bình quân chung của các ngân hàng cổ phần là khoảng 7%, còn với các ngân hàng quốc doanh thì rất nhỏ vì quy mô ngân hàng lớn; các ngân hàng nước ngoài thì càng không dính dáng đến chuyện này.
Như vậy 3% là một tỷ lệ căn cứ theo thực tế hiện nay có thể chấp nhận được để kiểm soát hoạt động cho vay này. Còn những trường hợp chưa cho vay đến mức ấy thì thế nào? Họ tự hành xử. Còn những ngân hàng đã cho vay nhiều hơn thì thế nào? Chúng tôi cũng đang chuẩn bị một quyết định để hướng dẫn và có một thời hạn để các ngân hàng đã cho vay vượt quá hạn mức đó rút dần dư nợ, đưa về tỷ lệ cho phép chứ không phải áp dụng ngay lập tức bởi vì các hợp đồng tín dụng đã ký với khách hàng thì phải đến đáo hạn mới được thu hồi.
Dự kiến đến cuối năm nay các ngân hàng có thể sẽ thu hồi vốn về theo hạn mức. Họ phải căn cứ vào thực tế để yêu cầu khi đáo hạn thì thu nợ chứ không được cho vay tiếp.
Ngân hàng Nhà nước có tính đến việc đưa ra chỉ thị trên sẽ tạo áp lực đối với các khách hàng của ngân hàng, buộc họ phải bán cổ phiếu ra để thu tiền trả nợ, gây ra sự sụt giá trên thị trường chứng khoán không?
Về áp lực đối với khách hàng, tôi phải nói thế này, khi khách hàng đã ký kết hợp đồng tín dụng thì giữa họ với ngân hàng là căn cứ theo hợp đồng tín dụng vay vốn và thời hạn trên hợp đồng để giải quyết nợ, không có chuyện là Ngân hàng Nhà nước đưa ra chỉ thị và các ngân hàng gọi anh đến yêu cầu trả nợ ngay là không có.
Như vậy áp lực chỉ có ở những người có ý đồ lâu dài dùng vốn vay ngân hàng để đi chơi chứng khoán chứ không phải đối với những người đã vay rồi. Còn đã vay thì đến hạn trả nợ là đương nhiên, và có thể anh không còn được vay tiếp. Không có ngân hàng nào cam kết là anh vay tôi đi rồi đến hạn trả nợ tôi lại cho anh vay tiếp. Cho nên không thể nói đến áp lực ở đây theo nghĩa ấy được.
Thống đốc có thể cho biết ngân hàng nào đang có tỷ lệ này cho vay cao nhất?
Đây là vấn đề nhạy cảm tôi không công bố được. Có những ngân hàng nhỏ cho vay vượt rất xa tỷ lệ 3%. Đó cũng là một lo lắng có tính chất hệ thống bởi vì ngân hàng đó tự nghĩ là mình không rủi ro nhưng nếu rủi ro đến thì có thể sẽ tạo dây chuyển trong hoạt động ngân hàng, vì vậy đó là lý do rất chính đáng để có tỷ lệ 3% này.