22:26 25/01/2009

Cơ hội mua cổ phiếu tốt trong 6 tháng đầu năm

Spencer White

Năm 2008, thị trường vốn Việt Nam đã trải qua nhiều biến động bất thường với giá của tất cả các loại tài sản đều sụt giảm

Chỉ số VN-Index đã sụt giảm 68% trong năm 2008 - Ảnh: Việt Tuấn.
Chỉ số VN-Index đã sụt giảm 68% trong năm 2008 - Ảnh: Việt Tuấn.
Năm 2008, thị trường vốn Việt Nam đã trải qua nhiều biến động bất thường với giá của tất cả các loại tài sản đều sụt giảm. Chỉ số VN-Index đã rớt xuống mức chưa từng thấy kể từ trước khi hiệu ứng bong bóng tín dụng bắt đầu vào năm 2006.

Sang năm 2009, chúng tôi dự đoán tình trạng bất ổn sẽ lắng dịu, niềm tin của nhà đầu tư sẽ được khôi phục và các chỉ số định giá sẽ tăng nhẹ. Đồng thời, lợi nhuận của các doanh nghiệp có thể sẽ được cải thiện, dẫn đến sự hồi phục và sinh lợi của các cổ phiếu chất lượng cao.

Mặc dù sự sụt giảm của các chỉ số chứng khoán quan trọng đã đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam xuống hàng cuối cùng so với các nước trong khu vực, nhưng chúng tôi dự đoán rằng thị trường chứng khoán Việt Nam có thể sẽ hồi phục vào năm 2009.

Sau khi chỉ số VN-Index đã sụt giảm 68% trong năm 2008, chúng tôi tin rằng giá cổ phiếu đã phản ánh gần như tất cả các yếu tố tiêu cực có thể sẽ còn kéo dài trong 6 tháng tới.

Năm 2008, các bong bóng đầu cơ liên tục bị nổ vỡ

2008 là năm mà các bong bóng đầu cơ liên tục bị nổ vỡ. Các bong bóng này đã bắt đầu hình thành từ năm 2005 do tín dụng quá mức trong hệ thống ngân hàng.

Quyết định số 03 của Chính phủ về giới hạn cho vay kinh doanh chứng khoán đã được thực thi vào tháng 06/2007 và đây chính là dấu hiệu khởi đầu cho một loạt các chính sách thắt chặt tín dụng. Trong suốt năm 2008, cán cân rủi ro đã bị đẩy nghiêng về phía thị trường bất động sản, nơi đã có nhiều hoạt động đầu cơ hơn hẳn.

Vào đầu năm 2008, các chính sách của Chính phủ chủ yếu tập trung vào kìm hãm tính thanh khoản trên thị trường tín dụng. Việc tăng nhanh chóng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vào tháng 1/2008 và phát hành tín phiếu bắt buộc vào tháng 03/2008 khởi đầu cho những nỗ lực kiềm chế sự tăng trưởng quá mức của dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam.

Một trong những tác động phụ của sự tăng trưởng quá mức này là lạm phát gia tăng. Tỷ lệ lạm phát đã bắt đầu tăng tốc vào cuối năm 2007 và vào tháng 8/2008 đã vọt lên đỉnh cao 28% so với cùng kỳ năm 2007.

Ngay lập tức, việc kìm hãm đột ngột tính thanh khoản đã tác động đến thị trường chứng khoán và cuối cùng là thị trường tín dụng, nơi tỷ lệ dư nợ cho vay đã tăng vọt từ 71% GDP vào đầu năm 2007 lên gần 100% GDP vào quý 1/2008.

Do cú sốc về tính thanh khoản này lan tỏa đến hầu hết các loại tài sản và toàn bộ nền kinh tế nên giá bất động sản bắt đầu đảo chiều vào quý 1/2008 và lượng giao dịch bất động sản đã giảm 90%, phản ánh tình trạng tương tự tại thị trường bất động sản Hồng Kông và Singapore.

Đồng thời, tình trạng mất cân đối cũng bắt đầu xuất hiện trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do đã vượt quá xa so với biên độ giao dịch USD/VND cho phép, dẫn đến lạm phát nhập khẩu tăng và làm tăng thêm gánh nặng cho nền kinh tế trong nước vốn đang phải đối đầu với nhiều thử thách.

Trong 6 tháng đầu năm 2008, tiền đồng (VND) trở nên khan hiếm do các đơn vị nhập khẩu găm giữ VND để đầu cơ trong khi ngân hàng từ chối mua USD đồng thời bán ngoại tệ này.

Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài lại không mua được số lượng VND cần thiết để đầu tư. Điều này cuối cùng đã tạo ra tình trạng mất cân đối kéo dài. Đồng USD từ dòng vốn đầu tư nước ngoài vốn đã bị siết chặt lại được bơm vào nhập khẩu (khiến thâm hụt thương mại tăng vọt).

Không có gì đáng ngạc nhiên khi thâm hụt thương mại bắt đầu tăng với mức độ chưa từng thấy. Trong vài tháng đầu năm 2008, mức thâm hụt này đã tăng gần 400% so với cùng kỳ năm ngoái và mức thâm hụt hàng tháng đã tăng vọt lên gần 3,3 tỷ USD vào tháng 03/2008.

Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài càng trở nên lo lắng nhiều hơn trước tình hình nóng bỏng này. Cũng trong tháng 03/2008, thị trường tiền tệ lại phải chịu thêm một cú sốc nữa khi tỷ giá USD/VND nhảy vọt lên 5% chỉ trong vài ngày, từ dưới mức sàn lên cao hơn biên độ giao dịch cao.

Trong cơn hoảng loạn, thị trường vốn đã bắt đầu có những phản ứng khi giá cổ phiếu chạm đáy và các ngân hàng gặp khó khăn khi muốn thanh lý các cổ phiếu mua nợ. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) đã phản ứng lại bằng cách giảm biên độ giao dịch chứng khoán từ 5% xuống còn 1%.

Tuy nhiên, sự kết hợp của các biên độ giao dịch giảm với một số đề xuất như tạm đóng cửa thị trường chứng khoán hoặc dùng nguốn vốn công để giải cứu thị trường... chỉ làm mai một thêm niềm tin của nhà đầu tư.

Thị trường nợ của Việt Nam cũng chịu chung số phận trong cuộc khủng hoảng này. Độ rủi ro của trái phiếu Chính phủ tăng vọt, đẩy mức sinh lời trái tức lên trên 20% và các hợp đồng hoán đổi tín dụng phá sản (CDS) trở nên có giá nhất trong khu vực.

Bất chấp niềm tin của nhà đầu tư bị suy sụp, các biện pháp kiểm soát nguồn vốn của Chính phủ lại giới hạn dòng chảy ra trực tiếp của đồng USD.

Sự can thiệp của Chính phủ và các gói giải pháp nhằm khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đã bắt đầu có tác dụng vào giữa năm 2008 khi các hoạt động đầu cơ tiền tệ và hàng hóa được kìm hãm, các chính sách tiền tệ và tài chính được áp dụng.

Thâm hụt thương mại hàng tháng đã giảm mạnh xuống còn chưa đến 1 tỷ USD vào đầu tháng 7/2008.

Chỉ số VN-Index đã hồi phục trong ngắn hạn vào mùa hè khi VN-Index tháng 08/2008 tăng 19,4% - mức tốt nhất trên thế giới. Tuy nhiên, hiệu ứng lan tỏa của đợt khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong 4 tháng cuối năm khi sự sụp đổ của Ngân hàng Đầu tư Lehman Brothers (ở Mỹ) làm khởi phát một đợt khủng hoảng trong hệ thống tài chính thế giới.

Cơ hội mua cổ phiếu tốt trong 6 tháng đầu năm 2009

Chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội lớn trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong 12 tháng tới. Giá cổ phiếu niêm yết đã phản ánh tất cả các yếu tố tiêu cực mà chúng tôi dự đoán có thể vẫn tồn tại trong thời gian tới, và giá cổ phiếu sẽ bắt đầu hồi phục trước khi nhận được sự hỗ trợ của các chỉ số kinh tế.

Các giải pháp phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam không hề đơn giản. Tuy nhiên, trong vòng 2 năm tới, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam vẫn sẽ cao hơn hẳn so với các nước phát triển trên thế giới. Các khoản đầu tư, vào lĩnh vực hạ tầng chẳng hạn, sẽ đem lại tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn về lâu dài.

Việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước theo giá thị trường, gỡ bỏ các rào cản đối với nhà đầu tư nước ngoài và tăng hạn mức sở hữu chứng khoán đối với nhà đầu tư nước ngoài chỉ là một số giải pháp giúp thu hút thêm sự chú ý của các nhà đầu tư chiến lược dài hạn.

Diễn biến thực tế của VN-Index và nền kinh tế sẽ phần nào lệ thuộc vào khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện đang gặp rất nhiều rủi ro.

Điều quan trọng là Việt Nam cần có các chính sách minh bạch và nhất quán với các gói hỗ trợ thích hợp để kích thích tăng trưởng. Nếu không, tương lai trước mắt của Việt Nam sẽ kém rõ ràng và tình trạng bất ổn sẽ tạo thêm nhiều rủi ro khác.

Các gói giải pháp kích thích tài chính có thể sẽ là các chất xúc tác chính hỗ trợ sự tăng trưởng trong nước nhưng điều này đòi hỏi phải có các khoản tài trợ để bù đắp mức thâm hụt.

Trong khi đó, việc tái cơ cấu hệ thống tài chính và điều chỉnh tài sản trong bảng cân đối kế toán là cần thiết hơn cả để hình thành một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững về sau.

Ngoài ra, cũng cần phải điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn để giảm bớt sự biến động của tỷ giá hối đoái do việc cố định tỷ giá USD sẽ làm giảm tính linh hoạt tiền tệ và đã gây khó khăn cho cạnh tranh xuất khẩu vào nửa cuối năm 2008.

Kim ngạch xuất khẩu tháng 11/2008 chỉ tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái từ mức đỉnh 68% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 07/2008. Chỉ số VN-Index hiện đang quay về gần mức hấp dẫn hơn với P/E hiện tại đạt 7,9x so với P/E cao nhất 22x trong năm 2008.

Người viết tin rằng trong 6 tháng đầu năm 2009 sẽ có rất nhiều cơ hội để mua cổ phiếu của các công ty tốt.

Tuy nhiên, thị trường bất động sản có thể sẽ cần thêm nhiều thời gian hơn nữa để hồi phục sau khi bị đóng băng do hậu quả của đợt bùng phát tín dụng.

Những người muốn bán nhà (nhất là các sản phẩm nhà ở cao cấp) sẽ khó có thể bán được, còn những nhà đầu tư muốn mua cũng sẽ gặp khó khăn do việc giới hạn tiếp cận các nguồn vốn vay mà chúng tôi dự đoán sẽ kéo dài sang năm 2010.

Ngoài ra, với mức sinh lợi trái tức hấp dẫn, các trái phiếu Chính phủ có mức sinh lợi dưới 10% sẽ kém hấp dẫn hơn sau đợt hồi phục trên thị trường trái phiếu vào cuối năm 2008 bất chấp lãi suất có thể sẽ tiếp tục giảm nhẹ vào đầu năm mới.

Chúng tôi sẽ xem xét và chọn lọc mua các cổ phiếu sau khi các đợt bán tháo cổ phiếu làm giá cổ phiếu giảm trong ngắn hạn.

Tóm lại, chúng tôi tin rằng sẽ có rất nhiều cơ hội trên thị trường chứng khoán trong 6 tháng đầu năm 2009.

Chúng tôi sẽ tiếp tục quan tâm đến các doanh nghiệp có ít rủi ro, hoạt động trong lĩnh vực hàng tiêu dùng trong nước có khả năng tạo ra dòng tiền ổn định và tài sản vững mạnh. Cũng sẽ có một vài cơ hội hấp dẫn đối với các cổ phiếu trong lĩnh vực hạ tầng đem lại giá trị cao và khả năng cạnh tranh mạnh.

* Tác giả bài viết từng là trưởng nhóm viết bản báo cáo của Merrill Lynch đánh giá về thị trường chứng khoán Việt Nam tháng 2/2006, và hiện làm việc tại Công ty Chứng khoán Thiên Việt.