Đại biểu đề nghị chỉ quy định “tín nhiệm” và “không tín nhiệm”
Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đặt câu hỏi, với quy định hiện nay, chưa cần lấy phiếu đã “mặc nhiên” được tín nhiệm?
Quy định ba mức tín nhiệm như Quốc hội vừa lấy phiếu hai lần vừa qua đã dẫn đến chưa cần tiến hành lấy phiếu thì chúng ta đã mặc định trước kết quả là: tất cả các chức danh đều được tín nhiệm, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga góp ý sửa nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, chiều 20/11.
Trình Quốc hội sửa Nghị quyết 35 về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn giữ quan điểm quy định ba mức độ tín nhiệm trên phiếu, gồm “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp”, như đã từng thực hiện trong lần hai lần lấy phiếu ở nhiệm kỳ này.
Tuy nhiên, số lần lấy phiếu thì chỉ tiến hành một lần trong một nhiệm kỳ vào kỳ họp cuối năm thứ ba, thay vì hai lần như ý kiến của nhiều vị đại biểu.
Phản ánh ý kiến của nhiều cử tri, đại biểu Chu Sơn Hà và Trịnh Thế Khiết đều cho rằng chỉ nên để hai mức tín nhiệm và không tín nhiệm. Đại biểu Danh Út đồng ý vẫn để ba mức để đánh giá khách quan hơn.
Phân tích sâu hơn, đại biểu Lê Thị Nga cho rằng bản chất của lấy phiếu là “thăm dò mức độ tín nhiệm”, cho nên phải nhằm trả lời câu hỏi: chức danh cụ thể đó có được Quốc hội tín nhiệm không? Nếu được tín nhiệm thì ở mức độ nào?
Về mặt logic, bất kỳ một cuộc thăm dò bằng phiếu nào thì kết quả chỉ có thể được khẳng định sau khi đã tiến hành thăm dò trên thực tế. Quy định ba mức như trên đã dẫn đến chưa cần tiến hành lấy phiếu thì chúng ta đã mặc định trước kết quả là: tất cả các chức danh đều được tín nhiệm, việc lấy phiếu chỉ còn có ý nghĩa xác định tín nhiệm cao, vừa, hay thấp mà thôi, bà Nga lập luận.
Vị nữ đại biểu này đặt câu hỏi, căn cứ khoa học và pháp lý nào mà Quốc hội lại ấn định là tất cả những người đứng đầu đều mặc nhiên được tín nhiệm trước khi lấy phiếu?
Vi Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng cho rằng việc không quy định mức “không tín nhiệm” là vô hình chung đã hạn chế quyền của đại biểu trong trường hợp đại biểu không tín nhiệm một chức danh nào đó. Và qua đó đã hạn chế luôn cả quyền này của cử tri vì lá phiếu đánh giá của đại biểu Quốc hội là thực hiện sự ủy nhiệm của cử tri.
“Đại biểu không có cách nào để thể hiện chính kiến của mình, nếu ghi thêm chữ “không tín nhiệm” thì phiếu trở thành không hợp lệ”, bà Nga nhấn mạnh.
Với lý lẽ căn cứ cơ bản nhất của đánh giá tín nhiệm là “kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn”, đại biểu Nga cho rằng việc không quy định mức “không tín nhiệm” là chưa đồng bộ với điều 29 Luật Cán bộ, công chức. Theo đó, trong 4 mức đánh giá cán bộ, có một mức là “không hoàn thành nhiệm vụ”.
Nhìn toàn bộ quy trình lấy phiếu, bà Nga cho rằng đã có những giới hạn khá thận trọng, ít có khả năng xẩy ra hệ quả xấu đối với người được lấy phiếu (như các quy định về trên 2/3 số phiếu thấp hoặc hai năm liên tiếp quá nửa số phiếu thấp và qua nhiều thủ tục xem xét của cơ quan có thẩm quyền...).
Những quy định này đã giúp cho việc lấy phiếu đáp ứng yêu cầu thực sự là một hình thức Quốc hội giám sát, nhắc nhở, cảnh báo để làm tốt hơn, đại biểu Nga nhìn nhận.
Từ các phân tích nói trên, đại biểu Nga đề nghị chỉ quy định hai mức là: “tín nhiệm” và “không tín nhiệm”. Trong ô “tín nhiệm” thì chia nhỏ thành hai mức: “tín nhiệm” và “tín nhiệm cao”.
Với sửa đổi: “Mỗi nhiệm kì lấy phiếu 1 lần vào kì họp cuối năm thứ 3”, vị Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng nói rõ là bà chưa đồng tình, bởi lấy phiếu sau gần 30 tháng kể từ khi được bầu hoặc phê chuẩn là quá muộn, làm giảm hiệu quả của giám sát.
Trong khi, theo bà, nhiều nghiên cứu về khoa học quản lý trên thế giới đã kết luận: khi đặt một người vào vị trí lãnh đạo, quản lý một đơn vị, thì trong vòng nhiều nhất là 6 tháng đã có thể đánh giá người đó có khả năng làm xoay chuyển thực trạng của đơn vị đó hay không.
Bà Nga nêu quan điểm, Quốc hội và cử tri khó có thể chấp nhận việc sau khoảng 1 năm rưỡi (tức gần 1/3 nhiệm kỳ) mà người đứng đầu chỉ mới làm quen với công việc; sau 1 năm rưỡi mà việc chỉ đạo, điều hành nhất là đối với những vấn đề nóng, bức xúc trong đời sống dân sinh chưa có kết quả trên thực tế.
Và cử tri cũng không thể chấp nhận rằng: với chừng ấy thời gian mà đại biểu chưa đủ khả năng, chưa đủ điều kiện để làm tốt được công tác giám sát, đánh giá.
Đề xuất của đại biểu Nga là cần quy định lấy phiếu hai lần vào kỳ họp thứ 5 tức kỳ họp đầu của năm thứ 3 và lần 2 vào kỳ họp thứ 8 tức kỳ họp cuối của năm thứ 4. Đây cũng chính là thời hạn và thời điểm của hai lần lấy phiếu vừa qua.
Cũng đồng ý lấy phiếu hai lần, song đại biểu Chu Sơn Hà và Trịnh Thế Khiết đều cho rằng nên lấy vào hai kỳ vào cuối năm thứ hai và thứ tư.
“Phần lớn cử tri mà tôi tiếp xúc đều có nguyện vọng lấy phiếu hai lần trong một nhiệm kỳ”, đại biểu Phan Văn Tường phản ánh. Tuy nhiên, đại biểu Danh Út cho rằng chỉ cần lấy một lần trong một nhiệm kỳ là đủ.
Trình Quốc hội sửa Nghị quyết 35 về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn giữ quan điểm quy định ba mức độ tín nhiệm trên phiếu, gồm “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp”, như đã từng thực hiện trong lần hai lần lấy phiếu ở nhiệm kỳ này.
Tuy nhiên, số lần lấy phiếu thì chỉ tiến hành một lần trong một nhiệm kỳ vào kỳ họp cuối năm thứ ba, thay vì hai lần như ý kiến của nhiều vị đại biểu.
Phản ánh ý kiến của nhiều cử tri, đại biểu Chu Sơn Hà và Trịnh Thế Khiết đều cho rằng chỉ nên để hai mức tín nhiệm và không tín nhiệm. Đại biểu Danh Út đồng ý vẫn để ba mức để đánh giá khách quan hơn.
Phân tích sâu hơn, đại biểu Lê Thị Nga cho rằng bản chất của lấy phiếu là “thăm dò mức độ tín nhiệm”, cho nên phải nhằm trả lời câu hỏi: chức danh cụ thể đó có được Quốc hội tín nhiệm không? Nếu được tín nhiệm thì ở mức độ nào?
Về mặt logic, bất kỳ một cuộc thăm dò bằng phiếu nào thì kết quả chỉ có thể được khẳng định sau khi đã tiến hành thăm dò trên thực tế. Quy định ba mức như trên đã dẫn đến chưa cần tiến hành lấy phiếu thì chúng ta đã mặc định trước kết quả là: tất cả các chức danh đều được tín nhiệm, việc lấy phiếu chỉ còn có ý nghĩa xác định tín nhiệm cao, vừa, hay thấp mà thôi, bà Nga lập luận.
Vị nữ đại biểu này đặt câu hỏi, căn cứ khoa học và pháp lý nào mà Quốc hội lại ấn định là tất cả những người đứng đầu đều mặc nhiên được tín nhiệm trước khi lấy phiếu?
Vi Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng cho rằng việc không quy định mức “không tín nhiệm” là vô hình chung đã hạn chế quyền của đại biểu trong trường hợp đại biểu không tín nhiệm một chức danh nào đó. Và qua đó đã hạn chế luôn cả quyền này của cử tri vì lá phiếu đánh giá của đại biểu Quốc hội là thực hiện sự ủy nhiệm của cử tri.
“Đại biểu không có cách nào để thể hiện chính kiến của mình, nếu ghi thêm chữ “không tín nhiệm” thì phiếu trở thành không hợp lệ”, bà Nga nhấn mạnh.
Với lý lẽ căn cứ cơ bản nhất của đánh giá tín nhiệm là “kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn”, đại biểu Nga cho rằng việc không quy định mức “không tín nhiệm” là chưa đồng bộ với điều 29 Luật Cán bộ, công chức. Theo đó, trong 4 mức đánh giá cán bộ, có một mức là “không hoàn thành nhiệm vụ”.
Nhìn toàn bộ quy trình lấy phiếu, bà Nga cho rằng đã có những giới hạn khá thận trọng, ít có khả năng xẩy ra hệ quả xấu đối với người được lấy phiếu (như các quy định về trên 2/3 số phiếu thấp hoặc hai năm liên tiếp quá nửa số phiếu thấp và qua nhiều thủ tục xem xét của cơ quan có thẩm quyền...).
Những quy định này đã giúp cho việc lấy phiếu đáp ứng yêu cầu thực sự là một hình thức Quốc hội giám sát, nhắc nhở, cảnh báo để làm tốt hơn, đại biểu Nga nhìn nhận.
Từ các phân tích nói trên, đại biểu Nga đề nghị chỉ quy định hai mức là: “tín nhiệm” và “không tín nhiệm”. Trong ô “tín nhiệm” thì chia nhỏ thành hai mức: “tín nhiệm” và “tín nhiệm cao”.
Với sửa đổi: “Mỗi nhiệm kì lấy phiếu 1 lần vào kì họp cuối năm thứ 3”, vị Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng nói rõ là bà chưa đồng tình, bởi lấy phiếu sau gần 30 tháng kể từ khi được bầu hoặc phê chuẩn là quá muộn, làm giảm hiệu quả của giám sát.
Trong khi, theo bà, nhiều nghiên cứu về khoa học quản lý trên thế giới đã kết luận: khi đặt một người vào vị trí lãnh đạo, quản lý một đơn vị, thì trong vòng nhiều nhất là 6 tháng đã có thể đánh giá người đó có khả năng làm xoay chuyển thực trạng của đơn vị đó hay không.
Bà Nga nêu quan điểm, Quốc hội và cử tri khó có thể chấp nhận việc sau khoảng 1 năm rưỡi (tức gần 1/3 nhiệm kỳ) mà người đứng đầu chỉ mới làm quen với công việc; sau 1 năm rưỡi mà việc chỉ đạo, điều hành nhất là đối với những vấn đề nóng, bức xúc trong đời sống dân sinh chưa có kết quả trên thực tế.
Và cử tri cũng không thể chấp nhận rằng: với chừng ấy thời gian mà đại biểu chưa đủ khả năng, chưa đủ điều kiện để làm tốt được công tác giám sát, đánh giá.
Đề xuất của đại biểu Nga là cần quy định lấy phiếu hai lần vào kỳ họp thứ 5 tức kỳ họp đầu của năm thứ 3 và lần 2 vào kỳ họp thứ 8 tức kỳ họp cuối của năm thứ 4. Đây cũng chính là thời hạn và thời điểm của hai lần lấy phiếu vừa qua.
Cũng đồng ý lấy phiếu hai lần, song đại biểu Chu Sơn Hà và Trịnh Thế Khiết đều cho rằng nên lấy vào hai kỳ vào cuối năm thứ hai và thứ tư.
“Phần lớn cử tri mà tôi tiếp xúc đều có nguyện vọng lấy phiếu hai lần trong một nhiệm kỳ”, đại biểu Phan Văn Tường phản ánh. Tuy nhiên, đại biểu Danh Út cho rằng chỉ cần lấy một lần trong một nhiệm kỳ là đủ.