
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Ba, 02/12/2025
Ths. Lê Minh Phượng (*)
02/12/2025, 15:07
Quá trình tăng trưởng kinh tế nổi bật của Việt Nam vừa qua dựa chủ yếu vào đóng góp của vốn (chiếm tới 70%) và lao động trong khi năng suất giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, sự già hóa dân số ở Việt Nam dự báo sẽ diễn ra nhanh từ những năm 2040 sẽ kéo theo mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế chuyển từ dương sang âm...
Ngày 13/11/2025, tại kỳ họp thứ 10 (Quốc hội khoá XV), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 với tỷ lệ 429/433 (90,51%) số đại biểu thống nhất mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 10% trở lên và GDP bình quân đầu người đạt 5.400 - 5.500 USD.
2026 là một năm quan trọng, không chỉ là năm đầu tiên trong giai đoạn 2026 – 2030 với kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm mà còn là năm đầu tiên của Quốc hội khóa XVI, những vị trí lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương tới địa phương sẽ được bầu ra. Với mục tiêu tới năm 2030, Việt Nam mong muốn trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao (trong ngưỡng từ 4.496 – 13.935 USD/người/năm) và năm 2045 là nước thu nhập cao theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Xét theo mục tiêu này, Việt Nam hoàn toàn khả thi để nâng mức thu nhập trung bình của toàn dân số vào năm 2030.
Giới chuyên gia nhận định Việt Nam sẽ sớm bước vào các nước thu nhập trung bình cao chỉ trong vòng một hoặc hai năm tới. Giai đoạn 2026 – 2030 được Đảng và Nhà nước xác định là giai đoạn có tính quyết định cho mục tiêu tham vọng hơn vào năm 2045.
Một vài thập kỷ trở lại đây, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm những quốc gia đang phát triển, mới nổi và có tiềm năng tăng trưởng cao. Nhưng số liệu gần 40 năm qua (1985-2024) ghi nhận mức tăng bình quân về GDP là 6,38% kể từ khi Đổi mới (1986).
Điều đặc biệt là chưa có năm nào Việt Nam đạt được mức tăng trưởng từ 10% trở lên. Nếu không tính đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính châu Á (1998-1999) và Covid-19 (2020-2021), thì từ năm 1992 với làn sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào, sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (năm 1995), cho đến nay, tốc độ tăng trưởng trung bình mà Việt Nam có thể đạt được chỉ là 7,09%.
Điều đó cho thấy trong những điều kiện bình thường của nền kinh tế thế giới và khu vực cùng với những động lực đáng kể giai đoạn vừa qua (như làn sóng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), gia nhập WTO (2007) và ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương, sự ra đời của Luật doanh nghiệp (2005) và sự hoàn thiện về thể chế, luật pháp, tháo gỡ các điểm nghẽn cho kinh tế tư nhân), một câu hỏi mà tác giả đặt ra đó là: “Nội lực tăng trưởng thực sự mà Việt Nam có thể đạt được là bao nhiêu?” hay “Cần làm gì để Việt Nam có thể hóa rồng?”.
Nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên cứu thuộc Ngân hàng dự trữ liên bang St. Loius (Hoa Kỳ), với dữ liệu khoảng 100 quốc gia có mức độ giàu – nghèo khác nhau, đã chỉ ra một kết luận quan trọng về tiềm năng đuổi kịp của các nước nghèo. Cụ thể, giai đoạn từ 1960-1999, các nước giàu tăng trưởng nhanh hơn các nước nghèo. Tuy nhiên trong giai đoạn từ 2000 đến 2019, xu thế này đảo ngược, các nước nghèo tăng trưởng nhanh hơn so với các nước giàu. Điều này ngụ ý sự đuổi kịp trong việc gia tăng thu nhập là hoàn toàn khả thi trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Dù tốc độ tăng trưởng kinh tế hay mức gia tăng liên tục và đáng kể của thu nhập bình quân đầu người không hoàn toàn phản ánh đúng mức độ phát triển của nền kinh tế cũng như mức sống, mức độ hạnh phúc của người dân, trong kinh tế học (một ngành nghiên cứu về vấn đề này) vẫn nhìn nhận 2 biến số trên có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Hiểu đơn giản, nghĩa là để đạt được mục tiêu thoát bẫy thu nhập trung bình và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 (tức là 20 năm tới), Việt Nam cần có mức tăng trưởng cao và liên tục trong giai đoạn này.
Theo Báo cáo “Việt Nam trỗi dậy: Con đường hướng tới tương lai thu nhập cao” của Ngân hàng Thế giới (2025): “Dựa trên mô hình tăng trưởng hướng tới xuất khẩu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người khoảng 5,1% mỗi năm trong bốn thập kỷ qua. Để đạt được vị thế quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam sẽ cần duy trì mức tăng trưởng nhanh hơn trong hai thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng bền vững khoảng 6,0% mỗi năm. Kể từ năm 1990, chỉ có 34 quốc gia và vùng lãnh thổ chuyển đổi thành công lên nhóm thu nhập cao, trong đó phần lớn là nhờ gia nhập Liên minh châu Âu (EU) hoặc được hưởng lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào”.
Cũng theo nhận định của báo cáo này, quá trình tăng trưởng kinh tế nổi bật của Việt Nam vừa qua dựa chủ yếu vào đóng góp của vốn (chiếm tới 70%), lao động và năng suất giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, già hóa dân số ở Việt Nam dự báo sẽ diễn ra nhanh từ những năm 2040 sẽ kéo theo mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế chuyển từ dương sang âm. Điều này đặt ra bài toán thách thức rất lớn hiện nay cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới và hiệu quả từ việc sử dụng các đầu vào của hàm sản xuất một cách hiệu quả hơn để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.
Các chuyên gia nhận định động lực chủ chốt mang tính quyết định cho giai đoạn tới của Việt Nam đó là nhờ vào tích lũy vốn và tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Mức TFP mà Việt Nam đã đạt trong thập kỷ vừa qua là 0,9%. Theo đó, với mục tiêu bước vào nhóm quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, trong điều kiện giữ nguyên mức đầu tư trên GDP (GFC) là 37%, đồng thời xét đến những tác động của vấn đề nhân khẩu học, thì Việt Nam cần đạt mức TFP trung bình là 2%. Đây là mức đầy tham vọng.
Tuy nhiên, một số quốc gia thành công trong khu vực như Hàn Quốc và Singapore, các quốc gia này đã đạt được thành tựu kinh tế đáng kể nhờ vào việc tăng năng suất, với Hàn Quốc là 2,3% trong giai đoạn 1990–2010 và Singapore là 3,3% trong giai đoạn 1970–1980. Như vậy, mức TFP trung bình 2% cho Việt Nam là hoàn toàn khả thi.
Tại tọa đàm cấp cao: “Năng lực chính sách và Chiến lược cho Kỷ nguyên mới của Việt Nam”, do Đại học Kinh tế Quốc dân và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đồng tổ chức gần đây, GS. Kenichi Ohno (GRIPS, Nhật Bản), người đã có hàng chục năm kinh nghiệm tư vấn chính sách cho nhiều quốc gia đang phát triển trên toàn thế giới, đã trình bày bài phát biểu về Phương pháp Chính sách mới cho Việt Nam. Ông đã chỉ ra những vấn đề mà Việt Nam đã gặp phải cũng như những bài học thành công từ các quốc gia Đông Á. GS. Kenichi Ohno nhấn mạnh vai trò của Chính sách là nhân tố chính để Việt Nam có thể học hỏi và cải thiện trong tương lai.
Theo GS. Kenichi Ohno, chính sách thiếu chất lượng là nguyên nhân chính của những vấn đề trong tăng trưởng dài hạn (như rơi vào bẫy thu nhập trung bình hoặc sự trì trệ sau khi đã bước vào nhóm thu nhập cao). Ông đặc biệt nhấn mạnh vào các gói chính sách ngành hiệu quả (trước đây thường gọi là chính sách công nghiệp) đối với trường hợp cụ thể của Việt Nam.
Việt Nam tuy có nhiều điểm sáng trong khu vực nhưng các động lực tăng trưởng còn yếu, như vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, đổi mới sáng tạo và các ngành công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao. Mặt bằng chung về năng suất còn thấp trong nhóm 5 nước ASEAN, cũng như việc quá lệ thuộc vào dòng vốn FDI đã khiến cho Việt Nam còn yếu trong các liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu.
Về vấn đề thể chế, Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2025) cũng đưa ra mô hình gợi ý về các nhóm chính sách mà Việt Nam cần tập trung trong giai đoạn quyết định này, trong đó, vấn đề hiện đại hóa thể chế mà Việt Nam đang thực hiện được xem là then chốt nhằm bảo đảm hiệu quả triển khai của bốn gói chính sách còn lại.
Một là, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Hai là, đầu tư vào hạ tầng có khả năng chống chịu cao.
Ba là, nâng cao kỹ năng, tăng cường tham gia và thích ứng.
Bốn là, đảm bảo mọi người dân đều được hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi sang quốc gia thu nhập cao.
Năm là, hiện đại hóa thể chế.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề, nơi tăng trưởng nhanh và bền vững không chỉ là mục tiêu kinh tế mà còn là điều kiện then chốt để đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
--
(*) Đại học VinUni, Thành viên Mạng lưới Kinh tế Chính sách, Tổ chức AVSE Global
Nội dung đầy đủ bài viết xem chi tiết tại đây:
Trước yêu cầu phát triển đô thị trong giai đoạn mới, thành phố Huế đang tăng tốc nhiều công trình hạ tầng lớn. Từ chỉnh trang bờ Bắc cầu vượt sông Hương đến tuyến đường ven biển Thuận An, tất cả đều được lãnh đạo thành phố yêu cầu bám sát tiến độ, bảo đảm chất lượng và hoàn thành đúng kế hoạch...
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu các bộ, ngành lựa chọn kỹ lưỡng các dự án thực sự trọng điểm trong tổng số 232 công trình đủ điều kiện khởi công, khánh thành, bảo đảm chương trình sự kiện chào mừng Đại hội XIV diễn ra trang trọng, mạch lạc và có sức lan tỏa...
Trước tình trạng 127 dự án đầu tư công vẫn chậm tiến độ, thi công dang dở hoặc phải tạm dừng, Nghệ An đã yêu cầu các chủ đầu tư rà soát toàn diện, làm rõ trách nhiệm và đề xuất phương án xử lý dứt điểm...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: