
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Hai, 10/11/2025
Thùy Linh
02/02/2018, 09:23
Bộ Tài chính vừa hoàn thành dự thảo lần 2 Luật sửa đổi các luật thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu
Bộ Tài chính vừa hoàn thành dự thảo lần 2 Luật sửa đổi các luật thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu và giữ nguyên quan điểm: bổ sung thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước ngọt. Tuy nhiên, việc áp thuế này liệu có bảo đảm tính công bằng, bình đẳng là câu hỏi đang được đặt ra trước khi luật thuế mới dự kiến có hiệu lực từ năm 2019.
Nước ngọt sẽ chịu thuế như rượu, bia, thuốc lá
Sau khi dự thảo lần một Luật sửa đổi các luật thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu được Bộ Tài chính gửi đi lấy ý kiến các bộ ngành, trong đó có đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt, nhiều ý kiến không đồng tình đã được phản hồi tới Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, tại dự thảo lần hai vừa hoàn thiện, Bộ Tài chính vẫn kiên định giữ quan điểm "Bổ sung nước ngọt có đường, trừ sữa, vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt". Nếu dự luật thuế này được thông qua, người tiêu dùng sẽ phải trả thuế tương ứng với 22% giá trị của mỗi sản phẩm nước ngọt (bao gồm 12% thuế giá trị gia tăng và 10% thuế tiêu thụ đặc biệt).
Mức thuế này được đề xuất áp dụng từ năm 2019. Theo quan điểm của Bộ Tài chính, "đây là nguồn lực quan trọng để thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội đang đặt ra, trong đó có nhiệm vụ về chăm sóc sức khỏe cho người dân".
Kinh nghiệm thế giới thế nào?
Tại tọa đàm "Xu hướng điều chỉnh chính sách thuế hiện nay trên thế giới - Một số hàm ý cho Việt Nam" tổ chức mới đây tại Hà Nội, ông Wayne Barford - Cố vấn cao cấp, Trung tâm Đầu tư và thuế quốc tế (ITIC) cho biết: "Nghiên cứu về việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát ở 157 quốc gia cho thấy, đây không phải là xu hướng phổ biến trên thế giới và trong khu vực.
Trên thế giới có 40 quốc gia áp dụng thuế này và tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chỉ có 4 quốc gia (Thái Lan, Lào, Campuchia, Brunei) chiếm khoảng 2,2% dân số trong khu vực, đang áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt.
Ngay cả những nước phát triển đang đối mặt với tỷ lệ người béo phì tăng nhanh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Úc, New Zealand, Canada,... cũng không áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt.
Do có nhiều nguyên nhân và yếu tố khác nhau liên quan đến nguy cơ béo phì và tiểu đường, các quốc gia này cho rằng áp thuế đối với nước ngọt không phải là giải pháp để giảm hay ngăn chặn các căn bệnh này, trong khi có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không đáng có đối với ngành công nghiệp nước giải khát và kinh tế địa phương.
Hàn Quốc và Canada lựa chọn sử dụng những biện pháp quy định về nhãn mác của các sản phẩm thức ăn và đồ uống. Các hoạt động đào tạo và những nỗ lực nhằm kêu gọi các nhà sản xuất giảm lượng đường trong sản phẩm, đặc biệt trong các sản phẩm dành cho trẻ em, cũng đang được đẩy mạnh.
Ngoài ra, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt tương tự ở một số nước khác cũng đã không thành công. Ví dụ, Đan Mạch và Indonesia là những nước đã từng áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt trong một thời gian dài nhưng đều đã phải bãi bỏ loạt thuế này do không có hiệu quả, nhất trong việc ngăn ngừa các căn bệnh béo phì.
Nhiều quốc gia có quan điểm cho rằng việc áp thuế với nước ngọt không phải là giải pháp tốt nhằm giảm hay ngăn chặn tình trạng thừa cân béo phì. Vì vậy, thay vì áp dụng chính sách thuế này, họ áp dụng các chính sách nhằm giảm lượng đường và chất béo trong thực phẩm và đồ uống chế biến sẵn, ban hành các qui định về dán nhãn ghi rõ thành phần dinh dưỡng như calo, protein, chất béo, đường, cholesterol, và natri, khuyến cáo đối với các sản phẩm có hàm lượng đường và chất béo cao, thực hiện các chiến dịch tuyên truyền về dinh dưỡng, về chế độ ăn uống lành mạnh, về thói quen vận động và rèn luyện thể lực.
Còn băn khoăn
Theo cơ quan soạn thảo, việc điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt được giải thích là nhằm hướng dẫn điều tiết tiêu dùng, nhằm phòng tránh các bệnh tiểu đường và béo phì cho người tiêu dùng, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, lợi ích công cộng và phù hợp với xu hướng sử dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (ở 40 nước) trên thế giới.
Theo chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong, các mục tiêu mà dự thảo nêu trên là đúng đắn. Vấn đề là mức thuế, đối tượng và cách thức thu thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt có đường cần cân nhắc sao cho có căn cứ khoa học và thực tế hợp lý, bám sát và đạt được mục tiêu đặt ra, tạo bình đẳng thị trường, đồng thuận xã hội và hiệu quả hành thu thuế cao, tránh cào bằng, thậm chí xung đột mục tiêu với chính các chính sách quản lý nhà nước khác hiện hành trong nước và thông lệ phổ biến trên thế giới….
Đặc biệt, cần tránh những bất cập nổi bật khi phân biệt đối xử các mặt hàng, chỉ thu thuế tiêu thụ đặc biệt sản phẩm nước ngọt, mà bỏ qua các sản phẩm có đường khác, và mặc định kết quả giảm béo phì chỉ nhờ đánh thuế nước ngọt khi chưa có các nghiên cứu toàn diện, và bằng chứng khoa học có sức thuyết phục cao.
"Điều đáng lưu ý là có sự thống nhất khá cao trong quan điểm của các bộ, ngành khi góp ý về dự thảo điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt, cụ thể hiện nay, Bộ Tài chính chưa có đánh giá tác động cụ thể có sức thuyết phục về việc đánh thuế ở mức 10% đối với nước ngọt sẽ làm giảm hoặc làm chậm tốc độ tăng tỷ lệ béo phì, tiểu đường ở Việt Nam là bao nhiêu.
Bởi vậy, rõ ràng là cần đánh giá tác động như thế nào về mức thuế tiêu thụ đặc biệt đề xuất trên đây đến vấn đề bệnh béo phì, tiểu đường để có cơ sở cân nhắc về mức và hiệu quả của chính sách thuế thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ áp dụng, như đòi hỏi của quy trình xây dựng luật hiện hành", TS. Nguyễn Minh Phong nói.
Từ những sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa, ẩm thực xứ Thanh, chương trình OCOP ở Thanh Hóa đã tạo bước chuyển mình mạnh mẽ. Hàng trăm sản phẩm đã có mặt tại các hệ thống siêu thị lớn, thậm chí xuất khẩu sang châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc, khẳng định vị thế của hàng Việt trên thị trường thế giới...
Chính sách thuế của Mỹ với đồ gỗ và nội thất tạo sức ép không nhỏ lên doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, thách thức đi kèm với cơ hội để doanh nghiệp tái cơ cấu chuỗi giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng niềm tin cho sản phẩm “Made in Vietnam”…
Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật xây dựng, đã được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường ký quyết định ban hành, là cơ sở pháp lý quan trọng để ngành trồng trọt triển khai đồng bộ các mục tiêu trong những thập kỷ tới. Theo Đề án, ngành Trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020. Đến năm 2050, 100% diện tích cây trồng chủ lực canh tác tuân thủ giảm phát thải.
Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả 10 tháng của năm đạt 7,09 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2024 và đã tiệm cận kết quả của cả năm 2024 là 7,12 tỷ USD. Kết quả này đang tạo nền tảng vững chắc để ngành rau quả hướng tới mốc 8,5 tỷ USD xuất khẩu trong cả năm 2025 – mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: