Doanh nghiệp và nạn tham nhũng: “Phong bì đã trở thành phản xạ”
Một dự án phòng chống tham nhũng đang ấp ủ mục tiêu huy động cộng đồng doanh nghiệp cùng hành động
Sáng kiến xây dựng tính nhất quán và minh bạch trong quan hệ kinh doanh (ITBI) đang được xem là dự án tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng, với mục tiêu huy động cộng đồng doanh nghiệp cùng hành động.
Đây là dự án do Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (SDforB), thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) triển khai. Cuộc trao đổi khá thú vị giữa VnEconomy và ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc SDforB xung quanh vấn đề tham nhũng đã gợi mở nhiều điều về tính nhất quán và minh bạch.
Mở đầu, ông Vinh nói:
- Đây là dự án phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp dựa trên “bối cảnh” là mối quan hệ doanh nghiệp - cơ quan công quyền. Trong đó, doanh nghiệp được coi như bên “cung” (đưa hối lộ) còn cơ quan công quyền như bên “cầu” (bên có điều kiện để nhận hối lộ).
Công việc chúng ta cần làm là phải chủ động giảm nguồn cung. Từ đó sẽ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp giúp họ nhận biết được các hành vi làm gia tăng tham nhũng. Khi đã nhận biết thì họ sẽ thay đổi. Từ chỗ đưa hối lộ thì doanh nghiệp sẽ giảm bớt dần việc này. Đồng thời doanh nghiệp cũng sẽ chủ động đưa ra kế hoạch, chương trình hành động, bộ quy tắc ứng xử phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp mình.
Nhưng thực chất doanh nghiệp phải đưa hối lộ - hành động được coi là “kích cầu” tham nhũng là “cực chẳng đã”, bởi nếu không họ sẽ bị gây khó dễ từ những người thuộc cơ quan công quyền?
Nói như vậy là có phần ngụy biện. Bởi tôi biết rằng nhiều doanh nghiệp luôn mang sẵn tâm lý “phong bì”, cứ gặp khó khăn khi làm việc với cơ quan công quyền là đã sẵn sàng cho việc này, thậm chí có khi họ đưa tiền mà không biết mình đưa vì lý do gì.
Trong khi việc lẽ ra phải nên làm là cần nắm chắc các quy định, văn bản pháp quy, các yêu cầu về thủ tục cần có mà mình phải tuân thủ khi “xin” cấp phép hay thực hiện một thủ tục nào đó. Nếu chủ động trong việc này thì cơ quan công quyền sẽ phải làm theo đúng quy trình và doanh nghiệp không phải mất thêm chi phí.
Tôi cho rằng “phong bì” đã trở thành phản xạ của doanh nghiệp khi đến nơi công quyền. Tình trạng này tồn tại một phần là do năng lực của chính doanh nghiệp còn hạn chế. Họ không nắm vững các quy định về các văn bản pháp quy, không nhận biết được các hành vi tiếp tay cho tham nhũng.
Do đó một trong những vấn đề đi đầu của dự án phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp là tập huấn, nâng cao nhận thức và năng lực, xây dựng và phổ biến những bộ công cụ, tài liệu cho doanh nghiệp.
Ông đánh giá như thế nào về hiện trạng tham nhũng hiện nay?
Tham nhũng ở ta đang có mặt ở mọi nơi. Y tế là nạn phong bì để tiêm không đau, là phong bì cảm ơn bác sỹ; ra đường thì là hành vi đưa tiền cho cảnh sát giao thông. Trong xây dựng thì “rút ruột” công trình, phí ngầm cho cấp phép xây dựng. Rồi tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan hải quan, thuế, ngân hàng…Có thể nói tham nhũng hiện diện hầu khắp mọi lĩnh vực.
Tuy nhiên, không phải là không thể giảm được căn bệnh này. Ví dụ như không phải y tá, bác sỹ nào cũng đòi hỏi phong bì. Nhiều khi do chúng ta cứ “đòi” đưa bằng được. Còn ra đường nếu ta đi tuân thủ đúng luật, giấy tờ đầy đủ thì sẽ không phải dẫn đến tình huống bị xử phạt, từ đó không phải đưa hối lộ tạo ra hành vi tham những cho người nhận.
Tuy nhiên, có trường hợp doanh nghiệp bị cơ quan công quyền làm khó dễ mặc dù họ đã nắm chắc luật pháp, có đủ thủ tục giấy tờ. Trường hợp đó họ cần mạnh dạn tố cáo các hành vi nhũng nhiễu đòi hối lộ.
Nhưng tố cáo hành vi tham nhũng lại có thể gặp rắc rối vì bị “thù” hoặc có thể gặp các rắc rối khác?
Đúng vậy, để chống được tệ tham nhũng, còn cần có hệ thống bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Có như vậy thì người tố cáo mới “an toàn” để dám đứng ra tố cáo. Còn người nhũng nhiễu phải bị xử lý nếu bị tố cáo, từ đó sẽ không dám nhũng nhiễu. Làm đồng bộ thì tệ tham nhũng sẽ giảm xuống.
Về vấn đề này, Luật Phòng chống tham nhũng đã đưa ra các quy định, Thanh tra Chính phủ cũng đã có các hội thảo phổ biến về các quy định, cơ chế bảo vệ người chống tham nhũng. Nhưng đúng là những vấn đề này vẫn còn chưa phổ biến rộng rãi đến mọi người và hệ thống bảo vệ người chống tham nhũng này cũng còn ở mức... sơ khai, mới hình thành.
Vì vậy, hệ thống này chưa thể hiện được vai trò là nơi tin tưởng cho người chống tham nhũng, nên cần được đưa vào vận hành, có như vậy thì người chống tham nhũng mới được bảo vệ thực sự.
Cũng vì thực tế này mà phòng chống tham nhũng chưa thể có ngay kết quả, không thể trong lành thực sự ngay lập tức, mà chúng ta mới đang hướng đến xã hội ngày càng ít tham nhũng hơn. Đây là vấn đề cần nhiều thời gian, năm tháng.
Ông có thể đánh giá về “phí ngầm” trong tổng chi phí của doanh nghiệp? Đâu là ranh giới giữa quà tặng và hối lộ?
Đánh giá về các khoản chi không chính thức mà doanh nghiệp phải bỏ ra rất khó và chưa thể đưa ra con số nào tại Việt Nam. Nhưng theo nghiên cứu của tổ chức tại nước ngoài, các khoản không chính thức này có thể lên đến 10% chi phí của doanh nghiệp.
Còn ranh giới quà tặng và hối lộ có thể phân biệt đươc qua giá trị quà tặng. Ví dụ nếu quà tặng kỷ niệm thì mang tính chất giá trị tinh thần nhiều hơn, còn “hối lộ” thì quà đó thường có giá trị vật chất cao. Hiện tại, theo quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng của Việt Nam có đưa ra quy định về quà tặng, hay mức thăm hỏi ốm đau với mức giá trị không quá 500.000 đồng.
Trong thực tiễn, nhiều công ty đa quốc gia, tổ chức quốc tế họ đã có những quy định rất cụ thể về mức độ, giá trị của quà tặng bằng vật chất, chi phí tiếp khách, chi phí tài trợ cho các sự kiện rất rõ ràng, minh bạch, tôi thấy đây là thông lệ tốt mà các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng.
Thông thường người tham nhũng là người có quyền lực, có ảnh hưởng đến kết quả quá trình xin-cho, vậy tại sao đối tượng này lại không được nhắc tới trong việc tham gia phòng chống tham nhũng, thưa ông?
Tham nhũng trước tiên thuộc về những người có chức, có quyền, họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đạt được mục đích cá nhân. Bởi vậy, với vai trò của mình thì chúng tôi tập trung hỗ trợ, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về các hành vi “nối giáo” cho tham nhũng cũng như giúp họ xây dựng các chương trình phòng chống tham nhũng tại doanh nghiệp mình.
Nhưng đúng là phòng chống tham nhũng còn phải dựa trên mối quan hệ đối tác, nếu chỉ một mình thì sẽ lạc lõng. Doanh nghiệp đấu tranh chống tham nhũng cần được bảo vệ, cần có một cơ quan giám sát độc lập về tham nhũng.
Trong khi doanh nghiệp cần chủ động từ chối các hành vi đưa hối lộ tiếp tay cho tham nhũng thì cơ quan công quyền cũng phải thay đổi nhận thức. Họ ăn lương nhà nước, được ưu đãi của nhà nước, cung cấp các phương tiện làm việc, chế độ đi lại, công tác phí nhưng không ít người thay vì là “nô bộc” cho dân thì lại trở thành đối tượng gây áp lực, sách nhiễu. Việc này cần phải chấm dứt, không nên tồn tại.
Để đánh giá được một hiện trạng tham nhũng ở góc độ mối quan hệ doanh nghiệp - cơ quan công quyền, dự án ITBI đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát về thực trạng tham nhũng trong khối doanh nghiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào hai mối quan hệ, trong đó có quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan công quyền và quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Dự kiến tháng 3 này, chúng tôi sẽ công bố kết quả nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu sẽ hỗ trợ được phần nào đó cho công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.
* ITBI là dự án đầu tiên, tiên phong trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, bao gồm mối quan hệ doanh nghiệp- cơ quan công quyền. Dự án do Đại sứ quán Thuỵ Điển, Đại sứ quán Anh tại Hà Nội, tập đoàn Siemens và công ty Ericsson Việt Nam tài trợ, với sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Hướng tới minh bạch (TT) thuộc Tổ chức Minh bạch Thế giới (TI), Diễn đàn Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Quốc tế (IBLF), Baker&McKenzie và đại diện một số cơ quan Chính phủ Việt Nam. Cộng đồng quan tâm đến dự án, xin mời vào địa chỉ website: www.itbi.org.vn.
Đây là dự án do Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (SDforB), thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) triển khai. Cuộc trao đổi khá thú vị giữa VnEconomy và ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc SDforB xung quanh vấn đề tham nhũng đã gợi mở nhiều điều về tính nhất quán và minh bạch.
Mở đầu, ông Vinh nói:
- Đây là dự án phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp dựa trên “bối cảnh” là mối quan hệ doanh nghiệp - cơ quan công quyền. Trong đó, doanh nghiệp được coi như bên “cung” (đưa hối lộ) còn cơ quan công quyền như bên “cầu” (bên có điều kiện để nhận hối lộ).
Công việc chúng ta cần làm là phải chủ động giảm nguồn cung. Từ đó sẽ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp giúp họ nhận biết được các hành vi làm gia tăng tham nhũng. Khi đã nhận biết thì họ sẽ thay đổi. Từ chỗ đưa hối lộ thì doanh nghiệp sẽ giảm bớt dần việc này. Đồng thời doanh nghiệp cũng sẽ chủ động đưa ra kế hoạch, chương trình hành động, bộ quy tắc ứng xử phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp mình.
Nhưng thực chất doanh nghiệp phải đưa hối lộ - hành động được coi là “kích cầu” tham nhũng là “cực chẳng đã”, bởi nếu không họ sẽ bị gây khó dễ từ những người thuộc cơ quan công quyền?
Nói như vậy là có phần ngụy biện. Bởi tôi biết rằng nhiều doanh nghiệp luôn mang sẵn tâm lý “phong bì”, cứ gặp khó khăn khi làm việc với cơ quan công quyền là đã sẵn sàng cho việc này, thậm chí có khi họ đưa tiền mà không biết mình đưa vì lý do gì.
Trong khi việc lẽ ra phải nên làm là cần nắm chắc các quy định, văn bản pháp quy, các yêu cầu về thủ tục cần có mà mình phải tuân thủ khi “xin” cấp phép hay thực hiện một thủ tục nào đó. Nếu chủ động trong việc này thì cơ quan công quyền sẽ phải làm theo đúng quy trình và doanh nghiệp không phải mất thêm chi phí.
Tôi cho rằng “phong bì” đã trở thành phản xạ của doanh nghiệp khi đến nơi công quyền. Tình trạng này tồn tại một phần là do năng lực của chính doanh nghiệp còn hạn chế. Họ không nắm vững các quy định về các văn bản pháp quy, không nhận biết được các hành vi tiếp tay cho tham nhũng.
Do đó một trong những vấn đề đi đầu của dự án phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp là tập huấn, nâng cao nhận thức và năng lực, xây dựng và phổ biến những bộ công cụ, tài liệu cho doanh nghiệp.
Ông đánh giá như thế nào về hiện trạng tham nhũng hiện nay?
Tham nhũng ở ta đang có mặt ở mọi nơi. Y tế là nạn phong bì để tiêm không đau, là phong bì cảm ơn bác sỹ; ra đường thì là hành vi đưa tiền cho cảnh sát giao thông. Trong xây dựng thì “rút ruột” công trình, phí ngầm cho cấp phép xây dựng. Rồi tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan hải quan, thuế, ngân hàng…Có thể nói tham nhũng hiện diện hầu khắp mọi lĩnh vực.
Tuy nhiên, không phải là không thể giảm được căn bệnh này. Ví dụ như không phải y tá, bác sỹ nào cũng đòi hỏi phong bì. Nhiều khi do chúng ta cứ “đòi” đưa bằng được. Còn ra đường nếu ta đi tuân thủ đúng luật, giấy tờ đầy đủ thì sẽ không phải dẫn đến tình huống bị xử phạt, từ đó không phải đưa hối lộ tạo ra hành vi tham những cho người nhận.
Tuy nhiên, có trường hợp doanh nghiệp bị cơ quan công quyền làm khó dễ mặc dù họ đã nắm chắc luật pháp, có đủ thủ tục giấy tờ. Trường hợp đó họ cần mạnh dạn tố cáo các hành vi nhũng nhiễu đòi hối lộ.
Nhưng tố cáo hành vi tham nhũng lại có thể gặp rắc rối vì bị “thù” hoặc có thể gặp các rắc rối khác?
Đúng vậy, để chống được tệ tham nhũng, còn cần có hệ thống bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Có như vậy thì người tố cáo mới “an toàn” để dám đứng ra tố cáo. Còn người nhũng nhiễu phải bị xử lý nếu bị tố cáo, từ đó sẽ không dám nhũng nhiễu. Làm đồng bộ thì tệ tham nhũng sẽ giảm xuống.
Về vấn đề này, Luật Phòng chống tham nhũng đã đưa ra các quy định, Thanh tra Chính phủ cũng đã có các hội thảo phổ biến về các quy định, cơ chế bảo vệ người chống tham nhũng. Nhưng đúng là những vấn đề này vẫn còn chưa phổ biến rộng rãi đến mọi người và hệ thống bảo vệ người chống tham nhũng này cũng còn ở mức... sơ khai, mới hình thành.
Vì vậy, hệ thống này chưa thể hiện được vai trò là nơi tin tưởng cho người chống tham nhũng, nên cần được đưa vào vận hành, có như vậy thì người chống tham nhũng mới được bảo vệ thực sự.
Cũng vì thực tế này mà phòng chống tham nhũng chưa thể có ngay kết quả, không thể trong lành thực sự ngay lập tức, mà chúng ta mới đang hướng đến xã hội ngày càng ít tham nhũng hơn. Đây là vấn đề cần nhiều thời gian, năm tháng.
Ông có thể đánh giá về “phí ngầm” trong tổng chi phí của doanh nghiệp? Đâu là ranh giới giữa quà tặng và hối lộ?
Đánh giá về các khoản chi không chính thức mà doanh nghiệp phải bỏ ra rất khó và chưa thể đưa ra con số nào tại Việt Nam. Nhưng theo nghiên cứu của tổ chức tại nước ngoài, các khoản không chính thức này có thể lên đến 10% chi phí của doanh nghiệp.
Còn ranh giới quà tặng và hối lộ có thể phân biệt đươc qua giá trị quà tặng. Ví dụ nếu quà tặng kỷ niệm thì mang tính chất giá trị tinh thần nhiều hơn, còn “hối lộ” thì quà đó thường có giá trị vật chất cao. Hiện tại, theo quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng của Việt Nam có đưa ra quy định về quà tặng, hay mức thăm hỏi ốm đau với mức giá trị không quá 500.000 đồng.
Trong thực tiễn, nhiều công ty đa quốc gia, tổ chức quốc tế họ đã có những quy định rất cụ thể về mức độ, giá trị của quà tặng bằng vật chất, chi phí tiếp khách, chi phí tài trợ cho các sự kiện rất rõ ràng, minh bạch, tôi thấy đây là thông lệ tốt mà các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng.
Thông thường người tham nhũng là người có quyền lực, có ảnh hưởng đến kết quả quá trình xin-cho, vậy tại sao đối tượng này lại không được nhắc tới trong việc tham gia phòng chống tham nhũng, thưa ông?
Tham nhũng trước tiên thuộc về những người có chức, có quyền, họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đạt được mục đích cá nhân. Bởi vậy, với vai trò của mình thì chúng tôi tập trung hỗ trợ, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về các hành vi “nối giáo” cho tham nhũng cũng như giúp họ xây dựng các chương trình phòng chống tham nhũng tại doanh nghiệp mình.
Nhưng đúng là phòng chống tham nhũng còn phải dựa trên mối quan hệ đối tác, nếu chỉ một mình thì sẽ lạc lõng. Doanh nghiệp đấu tranh chống tham nhũng cần được bảo vệ, cần có một cơ quan giám sát độc lập về tham nhũng.
Trong khi doanh nghiệp cần chủ động từ chối các hành vi đưa hối lộ tiếp tay cho tham nhũng thì cơ quan công quyền cũng phải thay đổi nhận thức. Họ ăn lương nhà nước, được ưu đãi của nhà nước, cung cấp các phương tiện làm việc, chế độ đi lại, công tác phí nhưng không ít người thay vì là “nô bộc” cho dân thì lại trở thành đối tượng gây áp lực, sách nhiễu. Việc này cần phải chấm dứt, không nên tồn tại.
Để đánh giá được một hiện trạng tham nhũng ở góc độ mối quan hệ doanh nghiệp - cơ quan công quyền, dự án ITBI đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát về thực trạng tham nhũng trong khối doanh nghiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào hai mối quan hệ, trong đó có quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan công quyền và quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Dự kiến tháng 3 này, chúng tôi sẽ công bố kết quả nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu sẽ hỗ trợ được phần nào đó cho công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.
* ITBI là dự án đầu tiên, tiên phong trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, bao gồm mối quan hệ doanh nghiệp- cơ quan công quyền. Dự án do Đại sứ quán Thuỵ Điển, Đại sứ quán Anh tại Hà Nội, tập đoàn Siemens và công ty Ericsson Việt Nam tài trợ, với sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Hướng tới minh bạch (TT) thuộc Tổ chức Minh bạch Thế giới (TI), Diễn đàn Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Quốc tế (IBLF), Baker&McKenzie và đại diện một số cơ quan Chính phủ Việt Nam. Cộng đồng quan tâm đến dự án, xin mời vào địa chỉ website: www.itbi.org.vn.