
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Thứ Sáu, 24/10/2025
Anh Nhi
24/10/2025, 10:31
Với nhu cầu vốn lên tới 136 tỷ USD trong vòng 5 năm tới, việc chuyển dịch năng lượng của Việt Nam đang bước sang giai đoạn thực thi với khả năng giải quyết “điểm nghẽn” về thể chế và tài chính…
Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới của quá trình chuyển dịch năng lượng với mục tiêu biến những chính sách đột phá thành các dự án có khả năng hút vốn và có thể triển khai trên thực tế. Mặc dù nhu cầu vốn lên tới 136 tỷ USD song nhiều nhà đầu tư đã cho thấy sự sẵn sàng và mục tiêu đặt ra là khả thi nếu Việt Nam tạo được “sân chơi” rõ ràng, minh bạch và an toàn về tài chính.
Khung khổ chính sách mới của Việt Nam cho sự chuyển dịch năng lượng được định hình bởi hai nghị quyết trụ cột. Thứ nhất là Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) cho rằng nghị quyết là bước tiến so với Nghị quyết 55. Nghị quyết 70 không chỉ kế thừa các mục tiêu về an ninh năng lượng và thị trường cạnh tranh, mà còn tạo ra những đột phá thực sự: đặt mục tiêu tiết kiệm năng lượng cao hơn (8-10%), huy động tối đa vốn tư nhân cho hạ tầng (lưới điện, BESS, LNG) và yêu cầu các cơ chế đặc thù cho điện gió ngoài khơi và điện hạt nhân.
Song hành với đó là Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Sự kết hợp này, theo các chuyên gia, là không thể tách rời.
Phát biểu tại Hội thảo Chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng năng lượng bền vững do UNOPS và Vụ Tài chính – Kinh tế ngành (Bộ Tài chính) ngày 23/10, ông John Rockhold, Trưởng Nhóm Công tác Điện và Năng lượng (PEWG), Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) đánh giá hai nghị quyết này là “hai mặt của một vấn đề”. Động lực tăng trưởng tiếp theo của Việt Nam (dựa trên sản xuất công nghệ cao, trung tâm dữ liệu đến hạ tầng AI) đang tạo ra một tín hiệu thực tế và thu hút sự quan tâm của giới đầu tư.
“Những ngành công nghiệp này dựa rất nhiều vào chất lượng của nguồn điện. Một sự gián đoạn ngắn cũng có thể đồng nghĩa với tổn thất tài chính đáng kể hoặc thời gian ngừng hoạt động ngoài kế hoạch. Do đó, việc xây dựng một trụ đỡ năng lượng đã trở thành nền tảng cho an ninh kinh tế quốc gia”, đại diện PEWG nhấn mạnh.
Tầm nhìn là rõ ràng, nhưng theo đánh giá của PEWG, việc triển khai đang đối mặt với những thách thức mang tính cấu trúc.
“Những mục tiêu đặt ra, những khung khổ chính sách được xây dựng chỉ có thể mang lại kết quả khi chúng được chuyển hóa thành các dự án có thể hút vốn trên thực tế,” đại diện VBF-PEWG nêu quan điểm.
Thách thức lớn nhất, theo PEWG, là Việt Nam thiếu những dự án có khả năng vay vốn. “Thị trường vẫn thiếu các hợp đồng mua bán điện thực sự có khả năng vay vốn, thiếu cơ chế thanh toán công suất rõ ràng và thiếu điều khoản bảo đảm tỷ giá”, ông John Rockhold chỉ rõ. Đây là những vấn đề kỹ thuật nhưng mang tính quyết định bởi nếu không chi phí vốn vẫn ở mức cao và các bên cho vay quốc tế vẫn thận trọng.
Hay như điện gió ngoài khơi (OFW) được xem là chìa khóa cho tương lai năng lượng dài hạn của Việt Nam, nhưng chính sách phát triển vẫn chưa rõ ràng. Theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hộ về cơ chế, chính sách ưu đãi để thúc đẩy các dự án điện, đặc biệt năng lượng tái tạ, các SOE 100% vốn và các doanh nghiệp lớn trong nước có thể được giao phát triển các dự án điện gió ngoài khơi mà không cần qua bất kỳ quy trình đấu thầu nào. Tuy nhiên, cả Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội đều không có bất kỳ quy định nào cho phép các nhà phát triển nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp lớn trong nước hoặc các công ty địa phương trong việc phát triển một dự án như vậy.
“Với quy mô vốn 4,5 - 5,5 tỷ USD cho 1GW và tính phức tạp của công nghệ, quan hệ đối tác với các nhà phát triển nước ngoài có kinh nghiệm là điều bắt buộc để đảm bảo bàn giao thành công và kịp thời”, đại diện PEWG nêu quan điểm.
Ngoài ra, theo ông Nguyễn Mạnh Sơn, Vụ Tài chính – Kinh tế ngành, Bộ Tài chính, việc “mở khóa” đầu tư vào truyển tải và phát triển lưới điện cũng là điểm nghẽn cần giải quyết bởi thực tế hiện nay nhiều dự án năng lượng tái tạo được xây dựng hoặc sẵn sàng xây dựng không thể kết nối với lưới điện.
Vậy làm thế nào để thu hút 136 tỷ USD vào một thị trường đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn tăng trưởng?
Ông Nguyễn Anh Dũng, đại diện Quỹ Châu Á (The Asia Foundation), khuyến nghị Việt Nam cần xây dựng một cơ chế tài chính linh hoạt hơn khi cơ chế giá FIT (cơ chế hỗ trợ giá) đã kết thúc và chuyển sang cơ chế FIP (cơ chế giá ưu đãi) và đấu thầu cạnh tranh.
Theo đó, giá tham chiếu sẽ được xác định qua đấu thầu cạnh tranh. Nghĩa là khi giá thị trường thấp hơn giá tham chiếu, EVN chi trả thêm phần chênh lệch để bảo đảm doanh thu cho nhà máy. Trong trường hợp giá thị trường cao hơn giá tham chiếu, nhà đầu tư sẽ được hưởng phần chênh lệch.
“Mô hình này, đã thành công ở nhiều nước, vừa cung cấp sự bảo đảm doanh thu tối thiểu để dự án có khả năng vay vốn, vừa khuyến khích các nhà máy điện hội nhập và phản ứng với tín hiệu thị trường”, ông Dũng cho biết.
Còn theo ông Nguyễn Văn Phú, Trường Đại học Paris Nanterre, để vừa đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số, vừa giảm phát thải CO2, Việt Nam cần thêm các công cụ chính sách như điều chỉnh giá điện theo lộ trình nhằm thúc đẩy đổi mới và tiết kiệm điện. Bởi giá điện không chỉ là câu chuyện chi phí, mà còn là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng.
Để giải quyết các điểm nghẽn trong thực thi, đại diện PEWG đề nghị thiết lập một nền tảng điều phối công-tư, nơi các bộ, ngành và doanh nghiệp có thể thường xuyên rà soát tiến độ và duy trì sự liên kết.
“Giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển dịch năng lượng Việt Nam sẽ không được viết nên bằng các văn bản chính sách, mà bằng các dự án trên thực tế. Điều chúng ta cần bây giờ là tốc độ, sự nhất quán và quan hệ đối tác trong việc giải quyết các điểm nghẽn về thể chế và tài chính”, ông John Rockhold khuyến nghị.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực công nghệ cao đang trở thành động lực chiến lược giúp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới sáng tạo và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Với nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, các chuyên gia cho rằng Hà Nội cần xác định rõ định hướng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu – phát triển (R&D) và nâng cao năng lực quản trị tài sản trí tuệ, sở hữu trí tuệ...
Kết luận phiên họp thứ 4 của Ban Chỉ đạo các công trình trọng điểm, dự án quan trọng quốc gia lĩnh vực đường sắt sáng 23/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh yêu cầu phát triển công nghiệp đường sắt và hệ sinh thái liên quan theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả các dự án trọng điểm, nhất là tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dự kiến khởi công vào ngày 19/12 tới....
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung tháo gỡ vướng mắc về thể chế, đẩy nhanh thủ tục chuẩn bị đầu tư, bảo đảm khởi công tuyến đường sắt tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng; thúc tiến độ các dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và đường sắt đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…
Hội thảo quốc tế VSBF 2025 quy tụ hơn 300 chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách trong nước và quốc tế, nhằm thảo luận về những xu hướng mới trong tài chính bền vững, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng ....
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: