Giải pháp chiến lược tạo đột phá phát triển kinh tế tư nhân
Cùng với tiến trình Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân nước ta đã không ngừng phát triển và có đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, hơn lúc nào hết, cần được khơi dậy, cởi bỏ các rào cản để phát triển mạnh mẽ, hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước...

Kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới nền kinh tế (1986) đến nay, quan điểm của Đảng ta về khu vực kinh tế tư nhân luôn nhất quán và xuyên suốt: từ chỗ không được công nhận đến công nhận nhưng chưa coi trọng, sau đó là được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là cho tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước.
Điều này được thể hiện rõ nét trong văn kiện các đại hội của Đảng, nhất là Nghị quyết số 10-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2020) và gần đây nhất là Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XIII (2023) về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
KHƠI DẬY SỨC MẠNH CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
Cùng với tiến trình Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân nước ta đã không ngừng phát triển và có đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính đến năm 2024, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của khu vực này đạt khoảng 900.000 doanh nghiệp; đã xuất hiện một số tập đoàn tư nhân lớn như Vingroup, Massan, Sun Group, Vietjet, Thaco…
Cùng với kinh tế tập thể và hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50,4% GDP, khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước và thu hút khoảng 85% lao động. Khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần quan trọng vào việc xóa đói, giảm nghèo, giảm chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn.

"Đây có thể coi là thời điểm không thể chậm trễ hơn phải khắc phục những thiếu hụt kể trên, khơi dậy sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được đề ra, nhất là trong bối cảnh thế giới đang có những biến động nhanh, mạnh, khó lường, nhiều thay đổi mang tính thời đại với những tác động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta".
Mặc dù vậy, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam hiện đang phải đối mặt với 5 cái thiếu.
Một, thiếu động lực phát triển (tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn, hay chỉ phát triển đến một mức độ nào đó thì bán cho nước ngoài; tư duy phát triển ngắn hạn, trong nhiều trường hợp là vi phạm pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh…).
Hai, thiếu nội lực, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là thiếu vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực chất lượng cao, thông tin thị trường…
Ba, thiếu định hướng phát triển dài hạn, kể cả từ phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
Bốn, thiếu sự kết nối (giữa doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân với nhau, giữa khu vực kinh tế tư nhân với khu vực FDI, với khu vực nhà nước và với chiến lược phát triển quốc gia). Năm, thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả (mặc dù cũng đã có khá nhiều cơ chế, chính sách).
Tất cả những điều đó đang khiến cho khu vực này hoạt động với hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh không cao, năng lực hội nhập quốc tế thấp, không vươn tầm được ra khu vực và quốc tế, trong nhiều trường hợp còn thua ngay trên sân nhà, năng lực đổi mới sáng tạo thấp.
Đây có thể coi là thời điểm không thể chậm trễ hơn phải khắc phục những thiếu hụt kể trên, khơi dậy sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được đề ra, nhất là trong bối cảnh thế giới đang có những biến động nhanh, mạnh, khó lường, nhiều thay đổi mang tính thời đại với những tác động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta.
Do vậy, trong buổi làm việc của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương vào ngày 7/3/2025 vừa qua, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng cần có những giải pháp vượt trội, có tính cách mạng nhằm vừa giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra trước mắt, vừa tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững, mạnh mẽ, lâu dài của khu vực kinh tế tư nhân nước ta trong thời gian tới. Các giải pháp này cần được xây dựng và triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện.
SÁU NHÓM GIẢI PHÁP
Để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển đột phá nhưng bền vững trong thời gian tới, cần thực hiện sáu nhóm giải pháp sau.
Một là, đổi mới tư duy, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; tạo đột phá về cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh.
Điều này đặc biệt quan trọng, bởi vì chỉ khi tư duy được đổi mới và có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động chúng ta mới có thể có được các cơ chế, chính sách thực sự phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Cần đổi mới tư duy từ chú trọng quản lý sang kiến tạo phát triển; từ hỗ trợ trước đầu tư sang “thưởng sau” đầu tư.

Cần tiếp tục khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là một cấu phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có vai trò quan trọng đặc biệt cho tăng trưởng; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là lực lượng nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và tạo đột phá, đưa nước ta sớm vượt qua nguy cơ tụt hậu, tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình và vươn lên phát triển thịnh vượng, đạt được các mục tiêu đã đặt ra đến năm 2030 và năm 2045.
Kinh tế tư nhân được tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước theo pháp luật. Triệt để thực hiện nguyên tắc kinh tế tư nhân được tham gia hoạt động và phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, đó mới là điều kiện cần, để tạo động lực thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển cần có điều kiện đủ, đó là cần tạo đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hay cụ thể hơn, là cần có “cuộc cách mạng” về minh bạch hóa, số hóa, thông minh hóa, tự động hóa trên cơ sở áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để: (i) Xóa bỏ sự chống chéo không thống nhất, mâu thuẫn trong quy định của các luật có liên quan đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân; (ii) Đơn giản hóa và minh bạch hóa các quy trình, thủ tục hành chính; cắt giảm mạnh các điều kiện kinh doanh không cần thiết (30%); giảm chi phí kinh doanh (30%), chi phí tuân thủ, chi phí không chính thức; giảm thời gian thực hiện các thủ tục (30%)…; (iii) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, tránh trùng lắp; (iv) Xây dựng cơ chế tham vấn, đối thoại thường xuyên, liên tục rà soát để tháo gỡ các điểm nghẽn…
Tất cả những điều đó sẽ giúp khích lệ, tạo cảm hứng, gia tăng sự tin tưởng, khát vọng vươn lên và hành động mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân trong Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Hiện nay, chúng ta chưa có chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Việc xây dựng chiến lược sẽ giúp gắn sự phát triển của khu vực này với chiến lược phát triển chung của đất nước, hướng tới mục tiêu đặt ra đến năm 2030 và 2045, phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân và giúp phát huy được ở mức cao nhất các tiềm năng, lợi thế của từng nhóm doanh nghiệp cũng như tạo sự kết nối phát triển của các nhóm doanh nghiệp với nhau, với khu vực nhà nước và khu vực FDI để tạo sức mạnh chung cho phát triển đất nước.
Chiến lược cần đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân như tỷ trọng đóng góp trong GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, năng suất lao động, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đổi mới sáng tạo…; xác định rõ vai trò, vị trí của từng nhóm đối tượng như doanh nghiệp lớn phải có vai trò dẫn dắt, tiên phong, đầu ngành, dẫn đầu trong những ngành chiến lược, đổi mới sáng tạo, thâm nhập thị trường quốc tế, phát triển các chuỗi cung ứng, tham gia các dự án quốc gia…; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp tăng trưởng và trưởng thành; doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể có vai trò tạo việc làm; doanh nghiệp khởi nghiệp có vai trò thử nghiệm các ý tưởng mới, hình thức kinh doanh mới, sản phẩm kinh doanh mới…
Chiến lược cũng cần xác định rõ định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực nhà nước đặt trọng tâm ưu tiên và các cơ chế, chính sách thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, cụ thể cho các nhóm đối tượng kể trên.
Ba là, thiết kế các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả theo từng nhóm đối tượng trong khu vực kinh tế tư nhân.
Việc phân nhóm đối tượng hỗ trợ sẽ giúp có được các cơ chế, chính sách phù hợp với vai trò, vị trí, đặc thù của từng đối tượng và giúp họ phát huy được cao nhất tiềm năng, thế mạnh của mình.
Bốn là, thiết kế các cơ chế, chính sách để kết nối khu vực kinh tế tư nhân với chiến lược phát triển quốc gia, các chương trình phát triển quốc gia; các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân với nhau; khu vực kinh tế tư nhân với khu vực nhà nước và với khu vực FDI.
Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp Việt Nam, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, tăng nội địa hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tăng sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Để thực hiện điều đó, cần xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà: doanh nghiệp tư nhân - Nhà nước – FDI để doanh nghiệp “không tự bơi mà bơi theo đàn” thông qua việc:
(i) Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó có sự kết nối doanh nghiệp tư nhân, FDI với các trung tâm R&D, trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ đầu tư mạo hiểm. Tạo nền tảng hợp tác phát triển sản phẩm, công nghệ mới, thúc đẩy chuyển đổi số, công nghệ xanh.
(ii) Xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đổi mới sáng tạo tích hợp: mô hình như Silicon Valley Việt Nam, khu công nghiệp - công nghệ cao - đô thị thông minh gắn kết giữa doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ, FDI, khởi nghiệp. Kết nối giữa nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, đầu tư và quản trị chính sách.
(iii) Có chính sách thúc đẩy “nội địa hóa” thông qua liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa: áp dụng tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong một số lĩnh vực chiến lược (ô tô, điện tử, công nghệ cao). Hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực để đáp ứng tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi cung ứng FDI…
Để kết nối giữa các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, cần:
(i) Khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ doanh nghiệp; xây dựng các mạng lưới, nền tảng số để doanh nghiệp dễ dàng kết nối, chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác, liên kết chuỗi cung ứng.
(ii) Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị: khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành trong các lĩnh vực như: công nghiệp hỗ trợ, chế biến nông sản, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Tổ chức các diễn đàn, hội chợ, hội thảo doanh nghiệp…
Để kết nối giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực nhà nước, cần: (i) Thiết lập các kênh đối thoại trực tiếp giữa doanh nghiệp tư nhân và Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. Xây dựng cơ chế phản hồi nhanh để giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp; (ii) Thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công như khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án lớn như hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, môi trường...
(iii) Ưu tiên doanh nghiệp tư nhân nội địa trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như các dự án đầu tư công, chương trình chuyển đổi số quốc gia, chương trình đổi mới công nghệ... (iv) Hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia (Quỹ đổi mới công nghệ, Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng...)…
Để kết nối khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI, cần:
(i) Xây dựng các chương trình liên kết chuỗi cung ứng giữa FDI và doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế tạo, công nghệ cao. Khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam.
(ii) Xây dựng Trung tâm liên kết, tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm xúc tiến công nghiệp hỗ trợ, trung tâm liên kết doanh nghiệp FDI - nội địa tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm. Tổ chức các buổi gặp gỡ, kết nối doanh nghiệp để doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận các tập đoàn lớn.
(iii) Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư cho FDI có cam kết liên kết, chuyển giao công nghệ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam. Yêu cầu các dự án FDI lớn có kế hoạch phát triển chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án…
Năm là, tập trung phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chung đồng bộ, hiện đại, tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho doanh nghiệp.
Bao gồm các hạ tầng cứng, hạ tầng mềm, hạ tầng dữ liệu, tri thức, như: (i) Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các trục đường sắt đô thị, các trục hạ tầng kết nối các trung tâm, vùng kinh tế; hệ thống cảng biển, trung tâm logistics đạt chuẩn quốc tế; các khu vực thương mại tự do, phi thuế quan, các trung tâm hàng quá cảnh khu vực; (ii) xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu mở để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; quản lý của Nhà nước; hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi, thúc đẩy liên kết… của các hiệp hội doanh nghiệp
Sắp tới, Bộ Chính trị sẽ ban hành nghị quyết mới về phát triển khu vực kinh tế tư nhân và Chính phủ đang phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương để tham mưu xây dựng. Đây sẽ là một nghị quyết mang tính hành động, các giải pháp được đưa ra sẽ phải thực hiện được ngay và mang tính đột phá như Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số...
(*) PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương.
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 11-2025 phát hành ngày 17/3/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://vneconomy.vn/don-doc-tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-11-2025.htm
