16:15 24/11/2020

Gỡ rào cản giao dịch đất nông nghiệp

Chương Phượng

Cần các chế tài đảm bảo sử dụng hiệu quả, đúng mục đích

Chính sách đất nông nghiệp hiện nay chưa tạo được động lực thu hút nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Một số chuyên gia đưa ra ý kiến: cần tạo ra các sàn giao dịch đất ruộng, các công ty thuê, mua đất ruộng rồi cho thuê, bán lại, các công ty tư vấn để hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất.

Các vấn đề về đất đai trong nông nghiệp lại làm sôi động Diễn đàn Nông nghiệp Mùa Thu 2020 vừa được Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) phối hợp với Oxfam tổ chức tại Hà Nội. 

ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỊ ĐỐI XỬ BẤT CÔNG?

TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện VEPR nhận định, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức bình quân ruộng đất theo đầu người thấp. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam là 0,25 ha, trong khi đó trên thế giới là 0,52 ha và trong khu vực là 0,36 ha. 

Nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Đây chính là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, hiện đại và bền vững trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp với các hộ nông dân xây dựng cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung công nghệ cao.

Theo ông Việt, các doanh nghiệp lớn đang có xu hướng đầu tư vốn vào nông nghiệp. Muốn làm nông nghiệp thì phải có đất canh tác. Tuy nhiên, chính sách đất đai trong nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. "Rất nhiều người cần đất đầu tư nông nghiệp thì không có đất, mà người có lại không cần. Bằng chứng là ở nhiều nơi, nông dân bỏ hoang đồng ruộng, lên phố làm việc. Nhiều doanh nghiệp, chủ trang trại lại không tập trung được đất đai để phát triển cánh đồng mẫu lớn, dự án nông nghiệp công nghệ cao", ông Việt nhận định. 

ThS. Đặng Thị Bích Thảo, chuyên gia Viện VEPR cho biết, qua nghiên cứu trường hợp điển hình tại xã Liên Giang (huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) cho thấy rất nhiều "khẩu" có suất đất ruộng nhưng hiện không còn ở xã. Đất của những người này thường được cho các hộ khác ở xã mượn để canh tác. Việc cho mượn đất (không lấy tiền) là rất phổ biến tại xã Liên Giang. Thậm chí một số chủ đất còn nộp hộ tiền "thóc nước" (chi phí thủy nông, dịch vụ khoa học kỹ thuật, bảo vệ thực vật) cho người mượn đất. Tâm lý của người dân là sợ bỏ hoang đất sẽ bị thu hồi, do đó họ "nhờ" người khác canh tác và giữ hộ ruộng cho mình. 

Năm 2019, trong khi diện tích đất thuê, mượn chiếm 31%; diện tích đất không thuê, mượn ở xã này chiếm 69%. Phần lớn lao động trồng lúa ở xã Liên Giang hiện ở độ tuổi 50-65. Trong vòng 10-20 năm nữa, khi thế hệ này già đi, không thể tiếp tục canh tác, trong khi con cái họ không mặn mà với ruộng đất. Do đó, thời gian tới cần có các chính sách để những người già, không có lợi thế trong sản xuất nông nghiệp có thể cho thuê hoặc bán ruộng. 

Phần lớn người dân đều cho rằng, ruộng đất là của Nhà nước, người dân không có quyền mua, bán. Vì vậy, cần có chính sách trao quyền cho người dân, thông qua việc cấp sổ đỏ. Một số hộ gia đình có mong muốn tích tụ, tập trung ruộng đất để sản xuất lớn, song họ gặp khó khăn khi không thể cùng lúc thỏa thuận với nhiều hộ gia đình nhỏ lẻ.

Nhiều chuyên gia cho rằng, chính sách đất đai trong nông nghiệp hiện đang là một trong những rào cản đối với chính sách nông nghiệp hàng hóa. Dù quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nhưng diện tích đất nông nghiệp vẫn còn rất lớn, nhất là đất lúa, nhưng thu nhập từ canh tác trên đất nông nghiệp ngày càng thấp khiến nhiều nông dân không thiết tha với ruộng đất. Theo nhiều nghiên cứu, những hộ có diện tích đất nông nghiệp trồng lúa tối thiểu từ 2,5-3ha thì thu nhập mới đủ sống, diện tích đất nông nghiệp có canh tác lúa dưới 2,5ha thì cuộc sống hầu như bấp bênh và chắc chắn người dân không thể dựa vào cây lúa để có cuộc sống ổn định.

Một số bất cập trong pháp luật về đất nông nghiệp đã được các chuyên gia nêu ra tại diễn đàn. Đơn cử, Luật Đất đai không cho phép xây dựng các công trình kiên cố phục vụ sản xuất trên đất lúa, trong khi sản xuất nông nghiệp quy mô lớn rất cần xây dựng những kho bãi diện tích lớn, khu nông nghiệp công nghệ cao cũng cần phải có quỹ đất lớn... Quy định này cản trở mục tiêu mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Trong khi, nhiều diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước thu hồi rồi, đất giao cho doanh nghiệp với giá rẻ, sau đó doanh nghiệp chuyển đổi thành đô thị mới hay xây khu du lịch và bán lại với giá đắt gấp hàng chục lần. 

KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI NHIỀU QUY ĐỊNH

ThS. Đặng Thị Bích Thảo khuyến nghị: "Nhà nước cần tạo ra các sàn giao dịch đất ruộng, các công ty thuê, mua đất ruộng rồi cho thuê, bán lại, các công ty tư vấn để hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với những thửa ruộng canh tác lúa kém hiệu quả, đi đôi với đó là việc đo đạc đất đai, cấp sổ đỏ và giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp".

Đề nghị đánh giá lại một cách thấu đáo về vai trò của đất đai, nông nghiệp trong giai đoạn mới nhằm xác định rõ quan điểm sử dụng đất nông nghiệp, ThS.Trương Quốc Cần, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi cho rằng, từ đó có định hướng nhất quán giữa chính sách với các quy định pháp lý liên quan đến đất nông nghiệp. 

Với quy mô đất đai của Việt Nam manh mún, việc tập trung, tích tụ đất nông nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường hiệu quả sử dụng đất là cần thiết. Tuy nhiên, để giảm thiểu tác động tiêu cực đến quyền lợi của nhóm người nông dân nhỏ, đặc biệt là các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, Nhà nước nên thúc đẩy các phương thức tập trung đất nông nghiệp và các phương thức tích tụ đất nông nghiệp ở quy mô nông hộ để đạt đến ngưỡng sản xuất hiệu quả theo từng loại sản phẩm. Các giao dịch chuyển nhượng trên quy mô lớn cần được quản lý chặt chẽ, thực hiện trên cơ chế thị trường, có sự thỏa thuận và đồng thuận của các bên, Nhà nước hỗ trợ về pháp lý và tư vấn để đảm bảo quyền và lợi ích của nhóm nông dân nhỏ và các nhóm yếu thế.

Theo ông Cần, một khuyến nghị chính sách quan trọng khác là phải gỡ bỏ các rào cản cứng hạn chế việc giao dịch đất nông nghiệp, thay vào đó là các chế tài đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, đúng mục đích sử dụng đất. Theo đó, cần quy định rõ cơ chế báo cáo, thu thập thông tin, cơ sở dữ liệu từ kết quả giám sát của công dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên giám sát của công dân, trong hệ thống theo dõi và đánh giá quản lý sử dụng đất đai. 

Trong các kiến nghị cụ thể, ông Cần đề xuất xây dựng trung tâm hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp, thực hiện chức năng cung cấp thông tin, hỗ trợ định giá, thiết kế hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá giao dịch đất đai giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. 

Ông Cần nhấn mạnh, "để thúc đẩy nguồn cung cho thị trường giao dịch đất nông nghiệp, đầu tư để đảm bảo an sinh xã hội cho nhóm yếu thế, tạo việc làm nông thôn và xúc tiến thương mại và chế biến nông sản cần phải được chuẩn bị trước một bước, bên cạnh việc phát triển bảo hiểm xã hội cho cả những nông dân rời bỏ nông nghiệp tham gia vào lĩnh vực phi nông nghiệp tại nông thôn và đô thị".