Mấy năm gần đây, xuất siêu đã trở thành một hiện tượng kinh tế nổi bật ở nước ta, sau nhiều năm nhập siêu
Một góc Cảng Hải phòng.<br>
Mấy năm gần đây, xuất siêu đã trở thành một hiện tượng kinh tế nổi bật ở nước ta, sau nhiều năm nhập siêu. Đánh giá hiện tượng này như thế nào?
Xuất siêu được coi là niềm vui, khi xét các góc độ khác nhau.
Năm góc độ đáng lưu ý
Ở góc độ thứ nhất, nếu cùng kỳ năm trước, trong quan hệ buôn bán hàng hoá với nước ngoài, Việt Nam còn bị nhập siêu (khoảng 60 triệu USD), thì 8 tháng năm nay đã chuyển sang vị thế xuất siêu (gần 2032 triệu USD).
Ở góc độ thứ hai, xét về thời gian thì năm nay có thể rất hiếm hoi, xét về quy mô thì đây là mức xuất siêu khá lớn.
Trong gần 40 năm qua, đây là lần thứ 4 Việt Nam có được vị thế xuất siêu và là mức xuất siêu lớn nhất (năm 1992 xuất siêu 40 triệu USD, năm 2012 xuất siêu 748,8 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 0,3 triệu USD, 8 tháng rưỡi năm nay xuất siêu 2032 triệu USD).
Ở góc độ thứ ba, đạt được xuất siêu là vượt cả dự báo và định hướng của các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô. Kế hoạch năm 2014 đưa ra các chỉ tiêu về xuất khẩu là tăng 10% và tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu là 6% - tính ra tổng kim ngạch xuất khẩu là 145,2 tỷ USD, mức nhập siêu sẽ là 8,7 tỷ USD. Gần như chắc chắn 2014 sẽ không nhập siêu lớn như chỉ tiêu kế hoạch, trái lại còn xuất siêu và mức xuất siêu sẽ lớn nhất từ trước tới nay.
Ở góc độ thứ tư, xuất siêu đạt được do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân tổng quát là quy mô và tốc độ tăng của xuất khẩu đạt cao hơn của nhập khẩu, do xuất khẩu đạt được nhiều sự vượt trội so với các ngành, lĩnh vực khác trong cùng thời gian.
Thứ nhất
, quy mô xuất khẩu mới qua 8 tháng rưỡi đã lớn hơn nhiều quy mô xuất khẩu trong cả năm từ 2011 trở về trước.
Thứ hai
, tốc độ tăng xuất khẩu đã cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba
, tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở cả hai khu vực. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (cả dầu khí) đạt cao hơn khu vực kinh tế trong nước cả về tỷ trọng trong tổng số (66,9% so với 33,1%), cả về tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (15,1% so với 12,9%) nhờ có ưu thế về vốn, về kỹ thuật-công nghệ, về sự hỗ trợ tiêu thụ từ công ty mẹ và các chi nhánh ở các nước..., lại tranh thủ được cơ hội khi Việt Nam mở cửa, hội nhập sâu, rộng hơn. Khu vực kinh tế trong nước tuy có quy mô nhỏ hơn, tăng thấp hơn, nhưng tốc độ tăng đã khá hơn các thời kỳ trước (kỳ này đã tăng hai chữ số).
Thứ tư
, tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở nhiều mặt hàng chủ yếu, trong đó có những mặt hàng tăng khá cao. Cơ cấu mặt hàng bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, khi tỷ trọng hàng thô, mới sơ chế giảm; tỷ trọng mặt hàng chế biến tăng, trong đó mặt hàng kỹ thuật-công nghệ khá (như điện thoại, máy tính, máy ảnh, máy móc, phương tiện vận tải...) đạt quy mô khá. Mới qua 8 tháng rưỡi đã có 21 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên, khả năng cả năm sẽ có thêm 2-3 mặt hàng nữa và nhiều hơn năm trước.
Thứ năm
, tất cả các tỉnh/thành phố đều có mặt hàng xuất khẩu, trong đó, mới qua 8 tháng đã có 15 địa bàn đạt từ 1 tỷ USD, trong đó có 10 địa bàn đạt trên 2 tỷ USD (danh mục 2), các địa bàn trên phần lớn là những nơi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và có tỷ lệ xuất khẩu cao.
Trong 63 tỉnh/thành phố, có 45 địa bàn xuất siêu, trong đó xuất siêu lớn có Bắc Ninh, Bình Dương, Tp.HCM, Cà Mau, Đắk Lắk, Hải Dương, Thái Nguyên.
Thứ sáu
, tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở nhiều thị trường. Mới qua 8 tháng, đã có 24 thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đã có 13 thị trường xuất siêu lớn với mức xuất siêu từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó xuất sang Hoa Kỳ đạt 14,152 tỷ USD. Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất (2,918 tỷ USD). Hồng Kông (2,227 tỷ USD). Hà Lan (1,989 tỷ USD)…
Ở góc độ thứ năm, nhờ xuất siêu, cán cân thương mại thặng dư, nên cán cân thanh toán tổng thể tiếp tục thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng (hiện đạt 35 tỷ USD, tương đương với 12 tuần nhập khẩu - đạt được ranh giới an toàn tài chính theo thông lệ quốc tế), tỷ giá ổn định (năm 2012 giảm 0,96%, năm 2013 tăng 1,09%, 8 tháng 2014 tăng 0,42%-khả năng cả năm tăng dưới 1%, thấp chỉ bằng một nửa định hướng); giảm tình trạng đô la hoá...
Hai mặt của hiện tượng xuất siêu 1
Số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất/nhập khẩu tính từ đầu năm đến 15/9 (8 tháng rưỡi).
Xuất siêu chưa thật trọn vẹn
Xuất siêu bên cạnh sự vượt trội về xuất khẩu, còn có nguyên nhân do tổng cầu ở trong nước bị co lại trong thời gian khá dài chưa được phục hồi, làm cho tăng trưởng nhập khẩu bị chậm lại (bình quân thời kỳ 2010-2013 tăng 17,2%/năm, 8 tháng 2014 tăng 10,7%), thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu (tương ứng tăng 23,3%/năm và tăng 14,4%). Tổng cầu yếu thể hiện ở sử dụng GDP (bao gồm cả về tích luỹ/đầu tư, cả về tiêu dùng cuối cùng).
Tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ 2012-2013 về sử dụng GDP thấp xa so với về sản xuất GDP (4,82% so với 5,33%). Tỷ lệ sử dụng GDP/GDP năm đã thấp hơn 100%- tức là sử dụng GDP thấp hơn sản xuất GDP (2012 là 97,7%, năm 2013 là 97,8%). Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm, từ 43,2% năm 2010 xuống còn 30,4% năm 2013; năm 2014 có khả năng cũng không cao hơn).
Mặc dù tổng cầu co lại là phù hợp với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ số lượng sang chất lượng, từ chiều rộng sang chiều sâu, nhưng có thể với liều lượng hơi cao, chuyển đổi khá đột ngột, trong khi sự yếu kém ở trong nước đang cộng hưởng với bất ổn ở bên ngoài.
Chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu, nhập siêu tăng chậm lại, cộng hưởng với tăng trưởng dư nợ tín dụng chậm lại kéo dài (bình quân năm thời kỳ 2011-2013 thấp chỉ bằng 1/3 thời kỳ 2006-2010), đã làm cho sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất kinh doanh kéo dài, tăng trưởng kinh tế chậm phục hồi.
Về khu vực, xuất siêu do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (8,5 tháng xuất siêu gần 12 tỷ USD); còn khu vực kinh tế trong nước nhập siêu lớn (8,5 tháng nhập siêu trên 9,9 tỷ USD).
Nhập siêu lớn từ một số thị trường (Trung Quốc 17,33 tỷ USD, Hàn Quốc 9,39 tỷ USD, Đài Loan 5,62 tỷ USD, Singapore 2,91 tỷ USD, Thái Lan 2,11 tỷ USD). Chỉ riêng 5 thị trường này, Việt Nam đã nhập siêu tới gần 37,3 tỷ USD.
Đọc thêm
Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng: Cần kiên định mục tiêu làm chủ công nghệ chiến lược về nghiên cứu và vận hành vệ tinh
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đề nghị Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cần kiên định mục tiêu làm chủ công nghệ chiến lược, tăng cường năng lực nghiên cứu, thiết kế, tích hợp, thử nghiệm và vận hành vệ tinh quan sát trái đất tầm thấp “Made in Vietnam”...
Nâng cao, đổi mới chất lượng đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
Để chuẩn bị cho cuộc bầu cử quan trọng sắp tới, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng hai văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa đặc biệt, để triển khai đúng pháp luật, đồng bộ, thống nhất, bảo đảm dân chủ và minh bạch trong toàn bộ quy trình bầu cử…
Thuốc giả, thực phẩm giả: Cần xử lý tất cả những người bao che, tiếp tay
Quá trình xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm, cần phát hiện và xử lý nhanh, xử lý nghiêm để bảo đảm tính răn đe. Đồng thời, phải xử lý tất cả những người bao che, tiếp tay. Đây là yêu cầu được đại diện Bộ Công an nhấn mạnh tại Phiên giải trình về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong phòng, chống thuốc giả, thực phẩm giả…
Tăng cường công tác bảo đảm an ninh, trật tự dịp Lễ Quốc khánh 2/9
Khi cả nước đồng loạt diễn ra nhiều sự kiện quan trọng kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh (02/9/1945 - 02/9/2025), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có công điện yêu cầu các bộ, ngành và địa phương tích cực chuẩn bị, đề phòng nguy cơ phức tạp về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, mất an toàn giao thông, an toàn cháy, nổ…
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Australia
Tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Australia Penny Wong, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh dư địa hợp tác giữa hai bên vẫn rất lớn, đề nghị tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình hành động thực hiện quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, định kỳ tổ chức cơ chế đối thoại, tham vấn để gia tăng hiểu biết và củng cố tin cậy chính trị...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: