16:09 05/06/2025

Khi bán tài sản thi hành án, chủ sở hữu cần được thông báo và ưu tiên mua trước

Đỗ Mến

Dự thảo quy định, trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hoặc bán tài sản của người khác gắn liền với quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, chấp hành viên thông báo cho chủ sở hữu chung, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất quyền ưu tiên mua tài sản thi hành án theo giá khởi điểm đã định...

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Theo hồ sơ thẩm định Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Bộ Tư pháp dự kiến đề xuất quy định mới về thủ tục bán tài sản, nêu rõ quy trình, thời gian bán tài sản nhằm tôn trọng quyền ưu tiên của chủ sở hữu…

Điều 50 dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) quy định, việc bán đấu giá đối với động sản được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày. Đối với bất động sản là 45 ngày kể từ ngày ký hợp đồng hoặc kể từ ngày thành lập Hội đồng đấu giá tài sản hoặc hết thời hạn ưu tiên mua theo quy định tại khoản 3 Điều này.

Ngoài ra, dự thảo quy định, trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hoặc bán tài sản của người khác gắn liền với quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, chấp hành viên thông báo cho chủ sở hữu chung, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất quyền ưu tiên mua tài sản thi hành án theo giá khởi điểm đã định.

Dự thảo cũng quy định trước khi mở cuộc bán đấu giá 1 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá. Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản. Mức phí tổn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi bán tài sản thi hành án, chủ sở hữu cần được thông báo và ưu tiên mua trước - Ảnh 1

Đây là quy định mới được xây dựng trên tinh thần các Điều 101, 102 Luật Thi hành án dân sự hiện hành; Luật Đấu giá tài sản, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Đất đai 2013.

Theo Bộ Tư pháp, quy định này nhằm bảo đảm công khai, minh bạch, linh hoạt xử lý tài sản đặc biệt, tôn trọng quyền mua với chủ sở hữu để tránh phát sinh tranh chấp và xung đột pháp lý sau này. Đồng thời hạn chế thiệt hại, bảo vệ quyền lợi các bên; ràng buộc trách nhiệm tổ chức đấu giá…

Mặt khác, thực tiễn hiện nay, liên quan đến đất đai thường phức tạp, đặc  biệt khi có tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba. Trong khi đó, luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng, dẫn đến nhiều vướng mắc và khiếu nại. Vì vậy, dự thảo cũng quy định về “cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất”.

Theo đó, trường hợp tài sản gắn liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì chấp hành viên yêu cầu người có tài sản đó tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao cho người được thi hành án. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày được thông báo mà họ không thực hiện thì chấp hành viên cưỡng chế giao quyền sử dụng đất, đồng thời giao các tài sản gắn liền với đất cho người được thi hành án.

Trường hợp người được thi hành án không nhận thì chấp hành viên cưỡng chế tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao. Chi phí cưỡng chế do người có tài sản chịu.

Trường hợp tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm nhưng bản án, quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối với tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Theo Bộ Tư pháp, quy định này nhằm chống tình trạng xây dựng trái phép sau khi bản án đã có hiệu lực nhằm trốn tránh nghĩa vụ chuyển giao đất. Mặt khác, thiết lập quy trình pháp lý an toàn và minh bạch cho cơ quan thi hành án trong trường hợp bản án thiếu sót, tránh việc tự suy diễn nội dung bản án (vốn vi phạm nguyên tắc “thi hành đúng nội dung bản án”).

 

Thực tế, người phải thi hành án thường tẩu tán, gửi tài sản cho người thứ ba để trốn tránh nghĩa vụ. Luật hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm cưỡng chế trong tình huống này, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án.

Điểm sửa đổi mới là dự thảo quy định, trường hợp xác định người thứ ba đang giữ tài sản, giấy tờ phải giao, trả thì chấp hành viên yêu cầu người đó giao, trả vật, giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao, trả thì chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế với người đó.

Lần đầu tiên dự thảo phân định rõ trách nhiệm cưỡng chế đối với người thứ ba (ví dụ: bạn bè, người thân, tổ chức đang giữ tài sản liên quan đến thi hành án)..

Quy định này có thể giúp xác lập cơ chế rõ ràng cho cơ quan thi hành án khi xử lý tài sản không còn nằm trong tay người phải thi hành án, nhưng vẫn thuộc phạm vi cưỡng chế.