Không thông báo nộp tiền sử dụng đất, chi cục thuế thua kiện
Một tình huống pháp lý hy hữu xảy ra khi cơ quan thuế không ban hành “thông báo nộp tiền sử dụng đất” mà yêu cầu “tiền nợ thuế” dẫn đến thua kiện…
Mới đây, Tòa án nhân dân TP Thanh Hóa đã đưa ra xét xử vụ tranh chấp hành chính khiếu kiện thuế giữa Công ty B. và một chi cục thuế ở Thanh Hóa.
DOANH NGHIỆP NHẬN “TRÁT” NỢ THUẾ
Theo hồ sơ, năm 2010, Công ty B. trúng đấu giá tài sản là quyền sử dụng khu đất hơn 20.000m2 gồm 190 lô đất tại xã Quảng Hưng, TP Thanh Hóa. Giá trị quyền sử dụng đất là hơn 53,3 tỷ đồng. Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền vào năm 2018.
Đến ngày 16/11/2022, Công ty B. nhận được thông báo số 12497 do nợ tiền thuế sử dụng đất dự án trên, số tiền hơn 23,4 tỷ đồng.
Công ty B. khiếu nại quyết định trên nhưng không được chấp nhận. Doanh nghiệp phải khởi kiện ra tòa án.
Theo doanh nghiệp, thông báo trên là không có cơ sở, trái quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, ảnh hưởng đến quyền lợi của công ty.
Công ty B. cho biết, khoản 2, Điều 15, Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất đã quy định thời hạn nộp tiền sử dụng đất là: “Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền sử dụng đất và các khoản nộp khác, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải nộp đủ số tiền sử dụng đất và các khoản nộp khác tại địa điểm nộp tiền theo đúng thông báo”.
Tại khoản 1, khoản 4 Điều 106 của Luật quản lý thuế đã quy định về xử phạt đối với hành vi chậm nộp thuế như sau: “Người nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp”.
Mặt khác, khoản 1 Điều 16 của Nghị định số 198/2014/NGG-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất nêu rõ: cơ quan thuế tính đúng, tính đủ, thông báo nộp tiền sử dụng đất và các khoản thu khác đúng thời hạn”.
Tại Khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 198/2014/NGG-CP ngày 03/12/2004 quy định “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc cơ quan tài nguyên và môi trường gửi đến, cơ quan thuế phải thực hiện: a) Kiểm tra hồ sơ địa chính, xác định số tiền sử dụng đất và các khoản thu khác phải nộp...; b) Thông báo tiền sử dụng đất phải nộp và các khoản thu khác đến cơ quan gửi hồ sơ địa chính. Thông báo phải ghi rõ tên tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải nộp, số tiền phải nộp của từng khoản, địa điểm nộp (Kho bạc Nhà nước), thời gian nộp và các nội dung khác do Bộ Tài chính quy định.
Như vậy, căn cứ để công ty có chậm nộp tiền sử dụng đất hay không và số ngày chậm nộp (nếu có) phụ thuộc vào thời gian công ty nhận được thông báo nộp tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, thực tế, tính đến ngày 16/11/2022, công ty không nhận được “Thông báo nộp tiền sử dụng đất” của chi cục thuế. Vì vậy, công ty đề nghị tòa án hủy thông báo trên.
QUAN ĐIỂM CỦA CƠ QUAN THUẾ
Theo cơ quan thuế, Công ty B. chậm nộp tiền sử dụng đất là theo căn cứ khoản 2, Điều 15, Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg ngày 31/8/2005 về việc “ban hành quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất”.
Chi cục thuế thừa nhận không ban hành “Thông báo nộp tiền sử dụng đất”. Tuy nhiên, Chi cục thuế cho rằng, hợp đồng mua bán tài sản cũng quy định, người trúng đấu giá có trách nhiệm “nộp tiền sử dụng đất”.
“Đây là một trong những tài liệu thuộc hồ sơ địa chính mà cơ quan Tài nguyên môi trường phải chuyển cho Chi cục thuế để làm cơ sở tính số tiền mà công ty phải nộp. Hợp đồng mua bán tài sản có nêu, Công ty B. cam kết nộp tiền trúng đấu giá quyền sử dụng đất theo tiến độ. Như vậy, công ty đã biết và hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Công ty liên tục vi phạm tiến độ dù Chi cục thuế đã nhiều lần đôn đốc”, ý kiến của Chi cục thuế.
Chi cục thuế đã căn cứ vào “hợp đồng mua bán tài sản” ngày 10/8/2010 để xác định thời gian chậm nộp, số tiền chậm nộp. Do đó, Chi cục thuế khẳng định đã làm đúng luật.
TRÁI CHIỀU QUAN ĐIỂM
Quá trình tố tụng, Viện kiểm sát cho rằng, việc ban hành “Thông báo tiền thuế nợ” của Chi cục thuế là có căn cứ theo quy định của pháp luật và Hợp đồng mua bán tài sản.
Tuy nhiên, tòa án xác định, theo các quy định pháp luật thì Chi cục thuế có nghĩa vụ phải “Thông báo nộp tiền sử dụng đất”. Để xác định công ty có vi phạm chậm nộp tiền sử dụng đất hay không, thời điểm chậm nộp, thời gian chậm nộp là bao nhiêu ngày thì phải được “so với thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế”. Doanh nghiệp phải chịu tiền phạt khi quá thời hạn nộp theo thông báo của cơ quan thuế.
Tòa cũng nhấn mạnh, “Thông báo nộp tiền sử dụng đất” là căn cứ không thể thiếu để xác định doanh nghiệp có hay không có hành vi chậm nộp tiền sử dụng đất và cũng là căn cứ để ban hành các văn bản xử lý hành vi chậm nộp.
Theo tòa, quá trình thực hiện chức năng quản lý, Chi cục thuế phải tuân thủ quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn. “Thông báo tiền thuế nợ” là quyết định hành chính của cơ quan quản lý thuế nên phải được ban hành đúng trình tự. Việc chi cục thuế căn cứ vào “Hợp đồng mua bán tài sản’ để ban hành “Thông báo tiền thuế nợ” là không đúng quy định. Với lý do trên, tòa án tuyên hủy thông báo tiền thuế nợ của chi cục thuế.