09:00 24/11/2022

Kinh nghiệm tái cấu trúc nợ trái phiếu từ Trung Quốc

Tùng Thư

Quy mô trái phiếu doanh nghiệp tại Trung Quốc tới cuối năm 2021 là 8 nghìn tỷ USD, chiếm tới 44% GDP của nước này. Trong đó, tỷ lệ vỡ nợ trái phiếu doanh nghiệp là 1,35%...

Ảnh minh hoạ,
Ảnh minh hoạ,

Trong báo cáo chuyên đề về trái phiếu doanh nghiệp vừa công bố, Fiin Ratings đã gợi mở 3 giải pháp tái cấu trúc nợ trái phiếu, nhìn từ bài học của Trung Quốc.

Tỷ lệ vỡ nợ trái phiếu tại Trung Quốc là 1,35% (tính theo giá trị trong tổng số 8 nghìn tỷ USD – chiếm tới 44% GDP của nước này trong khi đó ở Việt Nam chỉ ở mức 14% GDP) vào cuối năm 2021. Nhiều biện pháp đã được Chính phủ Trung Quốc áp dụng giúp các doanh nghiệp giảm áp lực bằng cách gia hạn nợ, hoán đổi trái phiếu,

Cụ thể, phương pháp sử dụng hợp đồng hoán đổi trái phiếu được áp dụng trong gần 79% các vụ vỡ nợ trái phiếu quốc tế, 72% các vụ vỡ nợ nội địa được xử lí bằng cách gia hạn nợ.

Một là giải quyết bằng cách gia hạn trái phiếu mà không yêu cầu thanh toán. Nghĩa là, nhà đầu tư chấp nhận cho doanh nghiệp gia hạn kỳ hạn trả nợ không thanh toán gốc. Giải thích về phương án này, các chuyên gia cho rằng, trong trường hợp nhà phát hành gặp khó khăn lớn không thể đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư có thể cần phải chấp nhận một mức chiết khấu nhất định để dự án có thể hoàn thành.

Phương án 1 được ưu tiên trong các vụ vỡ nợ trái phiếu quốc tế của Trung Quốc (Nguồn: Fiin Ratings)
Phương án 1 được ưu tiên trong các vụ vỡ nợ trái phiếu quốc tế của Trung Quốc (Nguồn: Fiin Ratings)

Tùy theo năng lực tài chính hiện tại, nhà đầu tư có khả năng phải chấp nhận giãn hoặc hoãn toàn bộ phần nợ gốc, song vẫn có thể duy trì cơ hội thu lại phần tiền gốc và lãi trong tương lai tùy theo thực tế đánh giá lại. Phương án không thanh toán một phần nợ là động thái tương đối nhạy cảm và có khả năng ảnh hưởng đến uy tín của nhà phát hành, do đó doanh nghiệp nên chủ động xây dựng phương án và đàm phán với trái chủ trước khi đến hạn nhằm tránh rơi vào tình huống vi phạm nghĩa vụ nợ.

Fiin Ratings cho rằng trước mắt phương án gia hạn nợ trái phiếu mà không phải thanh toán sẽ là phương án phù hợp cho nhà đầu tư và tổ chức phát hành tại Việt Nam.

Tuy nhiên đây cũng chỉ là phương án ngắn hạn khi chưa thể giải quyết tận gốc vấn đề, thị trường Trung Quốc hiện đang trải qua vỡ nợ đợt 2 và cần tới sự hỗ trợ từ Chính phủ với quỹ hỗ trợ quy mô 29 tỷ USD vào tháng 9/2022.

Hai là lựa chọn gia hạn nợ nhưng có thanh toán một phần. Phương án này khả thi khi các doanh nghiệp có năng lực và mong muốn đáp ứng nghĩa vụ nợ và nhưng gặp khó khăn trong ngắn hạn sẽ muốn giãn nợ để vượt qua giai đoạn này.

Việc chủ động thanh toán một phần và phần còn lại được giãn hoặc hoãn sẽ giúp doanh nghiệp tuân thủ trả nợ gốc và lãi sẽ giúp các nhà phát hành giữ mức độ tín nhiệm cho các hoạt động huy động vốn trong tương lai. Trong tình huống này, các nhà phát hành nên chủ động thông tin tới nhà đầu tư về tình hình sản xuất kinh doanh, thực hiện dự án và tiến độ trả nợ, cũng như đưa ra mức lãi suất “đền bù” phù hợp. Nhà đầu tư cần chủ động đánh giá và rà soát tình trạng pháp lý và tiến độ thực hiện của dự án trước khi đồng ý gia hạn kỳ trả nợ.

Phương án 2 được ưu tiên trong các vụ vỡ nợ trái phiếu nội địa của Trung Quốc. (Nguồn: Fiin Ratings)
Phương án 2 được ưu tiên trong các vụ vỡ nợ trái phiếu nội địa của Trung Quốc. (Nguồn: Fiin Ratings)

Ba là phương pháp sử dụng hợp đồng hoán đổi trái phiếu (iii) cũng được nhiều doanh nghiệp Trung Quốc áp dụng trong các vụ vỡ nợ trái phiếu quốc tế. Tại Việt Nam, thị trường gọi nôm na là “hàng đổi hàng”. Fiin Ratings đánh giá hoạt động này đã diễn ra trên thị trường trong thời gian qua và đạt kết quả tương đối khả quan. “Hàng đổi hàng” là một lựa chọn quan trọng và phụ thuộc nhiều vào bản chất hoạt động kinh doanh và sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Nhà đầu tư có thể đồng tình với giải pháp này khi có đầy đủ thông tin và pháp lý về tài sản được sử dụng để hoán đổi

Phần lớn vỡ nợ trái phiếu tại Trung Quốc được tự giải quyết bởi các thành viên thị trường mà không qua thủ tục tòa án hoặc sự can thiệp của cơ quan quản lý. Tỷ lệ này chiếm tới 76% số trái phiếu vỡ nợ.