Hôm qua (24/3), Australia và Singapore
đã gia nhập vào nhóm quốc gia, vùng lãnh thổ cấm nhập thực phẩm từ các
khu vực gần nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 của Nhật Bản, do lo
ngại nhiễm xạ.
Trước đó, Mỹ và Hồng Kông cũng đã có hành
động tương tự. Các sản phẩm bị cấm nhập khẩu bao gồm sữa, chế phẩm từ
sữa, rau quả, hải sản và thịt. Cả Australia và Singapore đều cấm nhập
khẩu các sản phẩm này từ 4 tỉnh Fukushima, Ibaraki, Gunma và Tochigi,
riêng Hồng Kông có thêm tỉnh Chiba trong danh sách.
Trong khi đó,
các cơ quan của Liên hợp quốc bao gồm Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc
tế (IAEA), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Lương Nông (FAO) đã
đánh giá cao Nhật Bản trong công tác giám sát thực phẩm, đo lường phóng
xạ trong thực phẩm và công bố kết quả rộng rãi.
Cũng liên quan tới Nhật Bản, giới phân tích dự báo, kim ngạch xuất khẩu của nước này
sẽ giảm mạnh trong những tháng tới
,
khi các công ty ngừng sản xuất sau thảm họa động đất kinh hoàng mới đây
và giờ đang phải đương đầu với những khó khăn sau sự cố tại nhà máy
điện hạt nhân Fukushima số 1.
Gần hai tuần sau thảm họa, một số
tập đoàn như Panasonic, Fujitsu và NEC... của Nhật Bản đang khởi động
lại dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên, một số công ty tiếp tục gặp nhiều
khó khăn do hoạt động cung ứng phụ tùng bị ảnh hưởng. Sony tạm ngừng
hoạt động 5 nhà máy, trong lúc Toyota và Honda đều cho biết sẽ không
tiếp tục sản xuất xe hơi cho đến ít nhất là tuần sau.
Công ty
Điện lực Tokyo (TEPCO), đơn vị vận hành hoạt động của nhà máy điện hạt
nhân Fukushima số 1, cảnh báo không thể cung ứng đủ điện, bởi 13 nhà máy
điện vẫn chưa hoạt động và vấn đề thiếu điện ở miền Đông Nhật Bản có
thể còn kéo dài nhiều tháng.
Trước khi xảy ra động đất và sóng
thần, theo các dữ liệu kinh tế công bố ngày 23/3, xuất khẩu của nước này
trong tháng 2 đã tăng 9% so với năm ngoái, đạt gần 5.589 tỷ Yên (tương
đương 70 tỷ USD). Đây là tháng thứ 15 liên tiếp xuất khẩu của Nhật Bản
tăng, chủ yếu là ôtô và thép.
Bộ Tài chính Nhật Bản cũng cho
biết, cán cân thương mại của nước này trong tháng 2 vừa qua đã quay trở
lại thặng dư, phản ánh sự hồi phục kinh tế toàn cầu trước khi xảy ra
thảm họa kép ở Nhật Bản. Cụ thể, xuất siêu của nền kinh tế lớn thứ ba
thế giới tăng 2,5% lên tới 654 tỷ Yên, chủ yếu nhờ xuất khẩu sang châu
Á.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đang thúc đẩy
vai trò mới
trong tiến trình giúp các nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu; theo đó tăng cường vị thế của quỹ như là thể chế tín
dụng quốc tế quan trọng nhất cho vay bằng đồng USD, euro và các ngoại tệ
mạnh khác trong thời gian khủng hoảng.
IMF cũng đặc biệt chia sẻ
với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) về vai trò thể chế tín dụng cuối cùng
mà các nước cần tìm đến trong các tình huống khẩn cấp.
Nhóm các
nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu (G-20) đã ủng hộ tích cực vai
trò mới này của IMF. Trong vai trò mới này, IMF sẽ cung cấp các trao
đổi ngoại hối ngắn hạn cho ngân hàng trung ương của các nước đang phát
triển để giúp xử lý các cơn sốc tài chính khiến các nước này thiếu ngoại
tệ mạnh.
Biện pháp này sẽ làm giảm sức ép chính trị khiến các
ngân hàng trung ương phải trao đổi tiền tệ với nhiều nước; đồng thời
thuyết phục người đi vay không cần tích lũy quá nhiều ngoại tệ để đảm
bảo an toàn tiền tệ trong thời gian khủng hoảng.
Các nhà lãnh đạo
của nhóm 4 nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRIC: Brazil, Nga, Ấn
Độ và Trung Quốc) sẽ họp tại Trung Quốc vào giữa tháng 4 để thảo luận
về
cải cách kinh tế sau khủng hoảng tài chính
, và đánh dấu sự gia nhập của Nam Phi.
Theo
nghiên cứu mới nhất từ Trung tâm trao đổi kinh tế quốc tế của Trung
Quốc, các nước BRIC dự kiến sẽ đóng góp tới 50% sự tăng trưởng của kinh
tế thế giới vào năm 2030. BRIC sẽ đi đầu trong việc phục hồi kinh tế thế
giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh.
Sản lượng
kết hợp của họ sẽ tăng từ 17% GDP toàn cầu trong năm 2010, lên 47% GDP
toàn cầu vào năm 2030. Trung tâm trên cũng dự báo, đô thị hóa sẽ là động
lực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế mới nổi trong tương lai.
Liên
quan tới khu vực châu Âu, hôm qua (24/3), tổ chức định mức tín nhiệm
Moody’s đã hạ ít nhất một bậc tín nhiệm tiền gửi và nợ ưu tiên trả trước
của
30 ngân hàng Tây Ban Nha
.
Các
nguyên nhân chính của động thái trên theo Moody’s là áp lực tài chính
ngày càng cao đối với nợ công của Tây Ban Nha và nhiều ngân hàng yếu
kém, vai trò của nhiều ngân hàng địa phương và ngân hàng nhỏ trong hệ
thống bị giảm sút do quá trình cải cách, cũng như khả năng hỗ trợ các
ngân hàng khu vực và ngân hàng nhỏ trên khắp châu Âu ngày càng suy yếu.
Theo
Moody’s, trong số 30 ngân hàng bị hạ bậc tín nhiệm, 15 ngân hàng bị cắt
giảm 2 bậc, 5 ngân hàng bị hạ từ 3-4 bậc. Triển vọng đối với xếp hạng
tiền gửi và nợ ưu tiên trả trước của hầu hết các ngân hàng vẫn còn đang
được xem xét và phụ thuộc vào quá trình cải tổ hiện nay.