Ngành logistics Việt Nam: Nâng cao năng lực để tiến sang thị trường EU
Song Hà
29/09/2022, 06:00
Sau hai năm thực thi, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu đã tác động như thế nào tới ngành logistics trong nước và làm thế nào để các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng tốt hơn những cơ hội từ Hiệp định mang lại là bài toán đặt ra cho ngành logistics Việt Nam hiện nay...
Nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics gia tăng khi EVFTA có hiệu lực
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đã có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, trong đó, dịch vụ logistics có các cam kết theo hướng mở cửa mạnh hơn đáng kể so với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thông qua việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu sang các nước EU, EVFTA giúp gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics và có tác động đáng kể đến triển vọng thị trường và ngành logistics Việt Nam.
THÁCH THỨC CẠNH TRANH RẤT LỚN
Tại tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy ngành logistics tận dụng cơ hội từ EVFTA”, các ý kiến đều nhận định, cam kết mở cửa lĩnh vực logistics trong EVFTA cao hơn một số hiệp định khác. Chỉ ra các cơ hội mang lại cho lĩnh vực dịch vụ logistics khi EVFTA được thực thi, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), cho rằng nhu cầu sử dụng các dịch vụ logistics tăng lên khi trao đổi thương mại giữa Việt Nam và EU tăng cao.
Tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy ngành logistics tận dụng cơ hội từ EVFTA”
Không chỉ thương mại, nhiều doanh nghiệp EU mong muốn đầu tư vào xây dựng những trung tâm logistics tại Việt Nam. Như vậy, sự kết nối giữa các tỉnh thành trong nước sẽ thuận lợi hơn, chi phí logistics sẽ giảm hơn.
Mặt khác, trong cam kết EVFTA về lĩnh vực logistics, chúng ta mở cửa cho đầu tư vào logistics nhưng lại chỉ cho phép liên doanh. Điều này tạo cơ hội hợp tác làm ăn của các doanh nghiệp logistics Việt Nam với doanh nghiệp EU.
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào cái chuỗi dịch vụ logistics của họ, như trở thành nhà thầu phụ, thậm chí họ có thể yêu cầu công ty Việt Nam tham gia vào một mắt xích của chuỗi giá trị này. Đồng thời, đây cũng là động lực để các doanh nghiệp logistics Việt Nam liên kết lại với nhau tạo thành sức mạnh.
Ngoài ra, những cam kết mở cửa Hiệp định là động lực hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ logistics, vận tải hàng hải khác nhau cho thị trường Việt Nam.
“Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam hợp tác, học hỏi và gọi vốn từ các công ty đa quốc gia, các đội tàu lớn hiện đại và chiếm thị phần lớn trên thị trường logistics thế giới đến từ châu Âu”, ông Khanh nhấn mạnh.
Bên cạnh các cơ hội và tiềm năng, các doanh nghiệp logistics Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới do EVFTA mang lại. Theo nhận định của Bộ Công Thương, sự chênh lệch về năng lực khiến các doanh nghiệp logistics Việt Nam cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp logistics của EU (là những doanh nghiệp mạnh và chiếm thị phần đáng kể trên thị trường logistics thế giới).
Hiện, nhiều doanh nghiệp logistics của EU đã có hoạt động kinh doanh ở Việt Nam như các tập đoàn DHL Group, Kuehne Nagel, DB Schenker của Đức, tập đoàn Maersk của Đan Mạch...
Trong khi đó, các doanh nghiệp dịch vụ logistics của Việt Nam phần lớn ở quy mô nhỏ và vừa, tính chuyên nghiệp chưa cao, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển, dẫn đến chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam cao hơn so với các nước.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Mai Trần Thuật, Giám đốc phụ trách Supply Chain Solutions, Bee Logistics Group, cho rằng chắc chắn các doanh nghiệp logistics Việt Nam sẽ có những sự cạnh tranh trong nội bộ cũng như cạnh tranh từ phía nước ngoài. Khi các tập đoàn lớn của EU đầu tư vào và hoạt động tại thị trường Việt Nam thì sự cạnh tranh ngày càng lớn.
Thừa nhận thách thức này, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, bổ sung, với một thị trường có quy mô rộng lớn cũng như tốc độ tăng trưởng lên đến 24% như khu vực EU thì đây là cơ hội hết sức to lớn cho cả doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics. Tuy nhiên, trong hoạt động logistics, sự tương quan giữa các doanh nghiệp Việt Nam và EU chưa được phù hợp.
CẦN TẠO RA ĐƯỢC CÁC “SẾU ĐẦU ĐÀN”
Những thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần có những giải pháp nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ logistics, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu giao thương xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU, đồng thời giữ được vị trí lợi thế sân nhà trong quá trình thực thi EVFTA.
Để đón đầu cơ hội cũng như giảm được những thách thức mà EVFTA mang lại, ông Thuật cho biết, mục tiêu của Bee Logistics là kết nối để trở thành đối tác của những công ty lớn trong EU hoặc liên kết để tham gia vào chuỗi cung ứng của họ.
Muốn làm được điều này, Bee Logistics đã chuẩn bị rất nhiều nguồn lực như tài chính và cơ sở vật chất (kho, trạm giao nhận, xe vận tải nhỏ) để phục vụ thị trường nội địa; đồng thời, tiếp cận công nghệ hiện đại để đưa vào vận hành. Nguồn nhân lực cũng cần sẵn sàng, mở lớp đào tạo các thế hệ kế cận trong ngành logistics… nhằm đón đầu cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp nước ngoài.
Không chỉ ở trong nước đợi cơ hội đến, Bee Logistics đang tìm những đối tác để hợp tác bằng cách đặt văn phòng đại diện ở châu Âu để tiếp cận trực tiếp với nguồn hàng.
Thậm chí, khi liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều từ công nghệ hiện đại của họ cũng như sự tiên tiến trong vận hành.
Ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, Tổng giám đốc Công ty cổ phần cao su Đà Nẵng, bày tỏ lo lắng khi chi phí logistics tăng cao do chúng ta bị chi phối bởi các hãng tàu nước ngoài, không điều động được container rỗng, không chủ động được nguồn tàu.
Vì thế, ông Nhựt đề xuất, để giảm chi phí logistics, Việt Nam nên phát triển các trung tâm logistics tại các cảng lớn để đảm bảo được lượng tàu vào, ra phù hợp.
Đồng thời, nên đầu tư các hãng tàu để chủ động, nếu không chúng ta sẽ đối mặt với sự cạnh tranh lớn. Hiện nay, các đơn vị vận tải đi trực tiếp vào các doanh nghiệp có nguồn hàng xuất nhập khẩu nhiều, nếu chúng ta không chủ động trước thì chắc chắn sẽ bị cạnh tranh khốc liệt.
Giải pháp cho vấn đề này, theo ông Thuật, Chính phủ và Bộ Công Thương cần có những chính sách phù hợp. Đồng thời, doanh nghiệp phải tự thân vận động để có những cải tiến phù hợp với yêu cầu hiện nay (như đầu tư mua công nghệ và các phần mềm đáp ứng được nhu cầu mà các công ty logistics của nước ngoài khi họ đầu tư vào Việt Nam); ngoài ra, cần chuẩn hóa, tự động hóa các khâu.
Ông Khanh đồng tình, doanh nghiệp đừng chỉ nhìn ở Việt Nam mà nhìn thẳng sang thị trường EU để kiếm được thị trường, tăng doanh thu từ khách hàng EU. Chúng ta cần tạo ra được các “sếu đầu đàn” trong lĩnh vực dịch vụ logistics. “Đầu đàn” mạnh sẽ kéo cả ngành đi lên, bởi không doanh nghiệp nào có thể tự tin là cung cấp được toàn bộ một chuỗi dịch vụ từ A đến Z.
Trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp logistics tham gia vào thị trường Việt Nam, ông Hải nhận định, doanh nghiệp nào dựa được vào công nghệ, ứng dụng công nghệ tốt thì sẽ là những doanh nghiệp có khả năng vượt trội, tăng sức cạnh tranh và vươn xa hơn. Doanh nghiệp nhận biết được vị trí của mình để phấn đấu và vươn lên.
Dẫn chứng từ Bee Logistics, ông Hải cho biết, doanh nghiệp này vươn ra thị trường nước ngoài thông qua những bước đi hợp lý, thông qua việc liên kết với các doanh nghiệp sở tại của EU, hoặc là từng bước từ vai trò đại lý chúng ta có thể nâng cấp, mở rộng được dịch vụ của mình.
Sắp tới Bộ Công Thương sẽ triển khai xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics với tầm vóc dài hạn hơn so với kế hoạch hành động trước đây, đặt nền móng hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam để đồng hành với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thị trường thế giới tốt hơn nữa, ông Hải thông tin.
Mặt khác, Chính phủ sẽ có những chính sách đòn bẩy về tín dụng để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, cắt giảm các thủ tục hành chính làm tăng chi phí thời gian, tài chính của doanh nghiệp bằng cách điện tử hóa các thủ tục đó…
Hai lần Mỹ rút khỏi Thỏa thuận Paris và hậu quả toàn
cầu
Sự kiện Mỹ tuyên bố rút khỏi Thỏa thuận Paris không chỉ là một quyết định mang tính biểu tượng về chính sách đối ngoại, mà còn tạo ra một hiệu ứng dây chuyền sâu sắc đối với cách thức vận hành của nền kinh tế toàn cầu trong thời đại chuyển đổi xanh...
Việt Nam vươn lên thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo
Xuất khẩu gạo trong những tháng cuối năm sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) vẫn tự tin dự báo cả năm 2025 sẽ xuất khẩu khoảng 8,8 triệu tấn, giữ vị trí quốc gia lớn thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo...
Ngành đồ gỗ trước áp lực tự chủ nguồn nguyên liệu
Ngành gỗ Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt trực tiếp với tác động từ cạnh tranh và hàng rào thuế quan trong chuỗi thương mại toàn cầu. Vì vậy, khả năng tự chủ nguyên liệu trong nước sẽ là yếu tố then chốt quyết định vị thế của Việt Nam với tư cách nguồn cung bền vững, duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế...
Đón đọc Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2025
Mời quý độc giả đón đọc Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2025 phát hành ngày 18/08/2025 với nhiều chuyên mục hấp dẫn...
Thiếu hụt nhân sự cấp xã, chồng chéo trong phân cấp phân quyền
Các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long đã nêu hàng loạt những khó khăn về nhân sự, thủ tục, phân cấp, phân quyền sau sáp nhập từ khi đi vào vận hành chính quyền địa phương 2 cấp. Đồng thời, kỳ vọng Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ sớm ban hành những hướng dẫn cụ thể, nhất là về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập sau sáp nhập; thủ tục hành chính trong lĩnh vực khoáng sản, tài nguyên nước, đất đai…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: