Những ngày tháng Tám mùa thu Cách mạng này, như hàng năm, tôi lại thường nhớ tới một người Hà Nội rất đặc biệt, một công dân Thủ đô vô cùng ưu tú. Đó là Bác sĩ Trần Duy Hưng.
Bác sĩ Trần
Duy Hưng (1912-1988) sinh ra tại làng Hòe Thị, xã Xuân Phương, nay là phố Hòe
Thị, phường Xuân Phương, thành phố Hà Nội. Cụ Hưng là vị Chủ tịch đầu tiên của
Hà Nội (tháng 8/1945 đến tháng 12/1946) và là Chủ tịch TP. Hà Nội liên tục 23
năm cho đến lúc cụ xin nghỉ (1954- 1977).
Rất nhiều
lần tôi cứ nghĩ không hiểu lý do gì, không hiểu điều gì đã khiến Chủ tịch Hồ
Chí Minh, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trước khi đọc Tuyên ngôn
Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, đã thân chinh đến tận tư gia của bác sĩ Trần
Duy Hưng (ngày ấy còn ở phố Hàng Bông Ruộm) để mời bằng được Bác sỹ tham gia
chính quyền Cách mạng với vai trò Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội đầu tiên
khi Bác sỹ mới tròn 33 tuổi.
Anh Trần
Tiến Đức, một trong những người con của cụ Hưng có kể lại: “Cụ Hồ ngỏ ý mời cha
tôi ra làm Thị trưởng Hà Nội. Cha tôi có nói với Cụ Hồ: Thưa cụ, tôi không quen
làm việc nhà nước, tôi chỉ quen chữa bệnh thôi. Cụ Hồ trả lời: Tôi cũng đã bao
giờ làm Chủ tịch nước đâu, chúng ta cùng học thôi”.
Khiêm nhường
và giản dị! Những người lãnh tụ và lãnh đạo thuở ban đầu của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Thủ đô Hà Nội!
Thời 80
năm trước ấy, có rất nhiều nhân sĩ trí thức tài giỏi, có rất nhiều cán bộ công,
nông binh cốt cán và năng nổ, nhưng vì sao cụ Hồ lại chọn cụ Hưng. Ngoài những
lý do mà chỉ có cụ Hồ hiểu được, tôi mạn phép nghĩ rằng cụ Hồ nhìn thấy ở cụ
Hưng không chỉ là một người Hà Nội gốc có một tình yêu tha thiết và sâu sắc như
bẩm sinh với thành phố quê mình và con người Hà Nội, không chỉ là một trí thức
ngay từ thời trai trẻ đã rất yêu nước thương dân, tin dân, trọng dân, tận tụy
và liêm chính, không chỉ là một bác sĩ tài ba thành thạo ba ngoại ngữ Pháp,
Anh, Trung nhưng rất giản dị, khiêm nhường, mà cụ Hồ còn nhìn thấy ở cụ Hưng một
nhà ngoại giao tinh tế mà bặt thiệp, linh hoạt mà thủy chung.
Nhớ lại
năm 1945 - 1946 với bao “thù trong giặc ngoài” của một Nhà nước non trẻ, việc
ngoại giao giỏi là một phẩm chất cần thiết biết nhường nào của một vị Thị trưởng
Thủ đô. Thực tế của giai đoạn lịch sử “nước sôi, lửa bỏng” 1945-1954 đã chứng
minh điều đó.
Hầu hết mọi
cuộc gặp xã giao hay thân mật, đấu trí, đấu khẩu hay thương thuyết quan trọng
và thành công với phía Pháp, phía quân Tàu Tưởng thời ấy ở Hà Nội đều luôn có mặt
cụ Hưng sát cánh bên cụ Hồ như một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, một cộng sự đối
ngoại vô cùng đắc lực.
Đến thời
chiến tranh chống Mỹ, người Hà Nội ít ai quên hình ảnh khi Tòa đại sứ Pháp trên
phố Bà Triệu bị máy bay của Không quân Mỹ ném bom ngày 11/10/1972, một trong những
người Việt đầu tiên có mặt giữa đống đổ nát mịt mù khói bom vương vãi xác người
ấy là Chủ tịch Trần Duy Hưng, trong khi nhiều nhân viên Tòa đại sứ còn chưa lên
khỏi hầm trú ẩn. Khi nhìn thấy cô gái là người yêu của con trai viên Lãnh sự đã
bị chết vì mảnh bom, Chủ tịch đã trực tiếp cùng mấy cộng sự đưa xác cô tới nhà
xác Bệnh viện Xanh Pon.
Tôi, do những
lý do gia đình, được chơi thân với các anh, chị là con cụ Hưng, nên cũng được
chứng kiến và được nghe kể nhiều câu chuyện ấn tượng về Chủ tịch TP. Hà Nội.
Tôi nhớ nhất
hình ảnh những đêm Giao thừa, Cụ Hưng, mặc cho gió rét đêm đông, không cần tiền
hô hậu ủng, chẳng cần báo chí ghi hình chụp ảnh đưa tin, cứ âm thầm lặng lẽ ôm
những bọc quà Tết đứng trước cửa nhà riêng ở 11 Lê Phụng Hiểu, chờ những người
công nhân môi trường đô thị đến dọn rác ở khu vực đó, để tận tay trao những túi
quà Tết do cá nhân Cụ chuẩn bị để tặng họ, kèm những lời chúc mừng năm mới đầy
chân tình.
Không một
ai trong những người thợ dọn rác ấy biết được rằng người đứng đợi họ trong đêm
Giao thừa để tặng túi quà Tết cho họ chính là vị Chủ tịch Thành phố.
Gần dân,
thương dân là một trong những sự khác biệt lớn nhất hiện nay giữa thế hệ lãnh đạo
thời cụ Hồ, cụ Hưng với không ít các quan chức bây giờ.
Cho nên,
tôi nghĩ, ngày nay, không chỉ ở Hà Nội, mà ở mọi tỉnh, thành trong cả nước, nếu
thực tâm muốn chấn hưng văn hoá, trước hết cần chấn hưng quan trí, chứ không phải
là dân trí.
Văn hóa xuất
phát từ trái tim và trí tuệ, chứ không bao giờ sinh ra từ tiền bạc và chức tước.
Không chấn hưng được quan trí, không chấn hưng được trái tim và trí tuệ của họ,
thì mãi mãi không thể chấn hưng được Thủ đô và đất nước Việt Nam ngàn năm văn
hiến.
Có một đêm
giáp Noel, lâu lắm rồi, chúng tôi ngồi với nhau ở một nhà hàng trên phố Ngô Thì
Nhậm, đối diện Nhà Thờ Hàm Long. Ngồi cùng bàn có mấy anh, em là lãnh đạo Thành
ủy Hà Nội, là Chủ tịch Thành phố khi ấy, có các anh là lãnh đạo các Sở Quy hoạch
- Kiến trúc, Sở Xây dựng của Hà Nội. Ngồi trên tầng hai của nhà hàng ấy, nhìn
qua cửa sổ sang Nhà thờ Hàm Long đẹp lung linh cả về kiến trúc lẫn trang trí,
câu chuyện của chúng tôi chuyển sang nói về vẻ đẹp trong kiến trúc và xây dựng
của Thủ đô.
Tại bữa
đó, tôi có mạnh dạn nói với các anh, em bè bạn rằng: “Các bạn đều được học hành
rất bài bản, nhiều người từng được tu nghiệp ở những nước rất tiên tiến, kiến
thức chuyên môn rất tốt và đáng nể trọng, nhưng vì sao Hà Nội của chúng mình,
hiện nay đã to hơn về diện tích, đông hơn về dân số, cao hơn về mức thu nhập gấp
bội lần, nhưng thực sự vẫn chưa đẹp hẳn lên, đẹp hơn nhiều so với thời trước Tiếp
quản năm 1954?
Thế là vì
sao thưa các anh, các bạn? Tôi nghĩ đó là bởi vì mọi người cần phải rất yêu Hà
Nội, để mà cống hiến, dâng hiến và phụng sự cho tình yêu ấy, thì thành phố này
mới thực sự xanh - sạch - đẹp được. Nếu các anh, các bạn từ trong sâu thẳm trái
tim mình vẫn chưa yêu Hà Nội hết lòng, dường như vẫn chỉ coi Hà Nội như một nơi
gần “Mặt trời” nhất để thăng tiến nhanh nhất, để kiếm danh lợi thì Hà Nội mãi vẫn
cứ lẹt đẹt, vẫn cứ như dưới quê các anh là các anh đã vỗ tay hài lòng rồi...”.
Sau cuộc gặp
ấy và một số năm tháng sau đó, thật may là không ai ghét câu tâm sự trên của
tôi, nhưng cũng không quên quá khứ bao giờ, đấy cũng là nét đẹp của người Hà Nội,
của tất cả những ai đã và đang sống và làm việc tại Hà Nội Thủ đô yêu dấu.
Đó cũng là
lý do, vào những ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 này, tôi lại
nhớ, lại nghĩ về cụ Trần Duy Hưng, về vị Bác sĩ, Chủ tịch đầu tiên và vô cùng xứng
đáng của Thành phố này, một người Hà Nội chân chính, một trong những Công dân
Thủ đô ưu tú nhất trong 80 năm qua...
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tạiđây:
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Không để người dân bám trụ trong vùng nguy hiểm khi bão đổ bộ
Chiều 28/9, ngay sau khi chủ trì cuộc họp trực tuyến Ban Chỉ huy tiền phương của Chính phủ tại điểm cầu Thanh Hóa với các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh Bắc Trung Bộ về ứng phó khẩn cấp bão số 10, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã trực tiếp vào Nghệ An để kiểm tra công tác chuẩn bị tại cơ sở.
Công an nhân dân vì Đảng, vì dân
Tạp chí Kinh tế Việt Nam - VnEconomy trân trọng giới thiệu bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề “CÔNG AN NHÂN DÂN VÌ ĐẢNG, VÌ DÂN”.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Khẩn trương sơ tán dân, bảo đảm an toàn đê điều và hồ chứa
Tính đến trưa 28/9, các tỉnh, thành phố từ Ninh Bình đến Huế đã tổ chức sơ tán 4.694 hộ/11.177 người tại khu vực nguy hiểm, trong đó: Ninh Bình 894 người; Thanh Hóa 1.372 người; Nghệ An 891 người; Hà Tĩnh 6.749 người; Quảng Trị 651 người; Huế 620 người... Hiện các địa phương đang tiếp tục tổ chức sơ tán các hộ dân ở khu vực nguy hiểm…
Khánh thành cầu Phong Châu mới
Cầu Phong Châu mới không chỉ khắc phục hậu quả thiên tai, còn giúp kết nối kinh tế - xã hội hai bờ sông Hồng, vừa đảm bảo an ninh, quốc phòng, đồng thời thể hiện rõ vai trò của quân đội – một đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, đã ra quân là chiến thắng...
Nông nghiệp, nông thôn: Định hướng phát triển bền vững đến năm 2030 theo Nghị quyết 19-NQ/TW
Chính phủ tập trung việc xây dựng Đề án đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: