
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam đáp ứng các tiêu chí nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi.
Chủ Nhật, 19/10/2025
Anh Quân
23/07/2010, 13:49
Nợ nước ngoài quốc gia tính đến thời điểm cuối năm 2009 đã lên đến gần 28 tỷ USD
Bộ Tài chính vừa công bố bản tin số 5 về nợ nước ngoài của Việt Nam, tính đến cuối năm 2009.
Theo quy định của Chính phủ
, các bản tin nợ nước ngoài được công khai và có độ trễ 6 tháng.
Vẫn trong giới hạn an toàn
Tính đến ngày 31/12/2009, tổng dư nợ nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài Chính phủ và nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ.
Đánh giá về con số này, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) Nguyễn Thành Đô trong một hội thảo gần đây cho rằng, nợ nước ngoài quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn. Quan điểm của ông Đô cũng được chứng minh trên tất cả các tiêu chí đánh giá.
Cụ thể, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó trên 50% được cho là nợ quá nhiều; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ chỉ bằng 4,2% (WB cho phép đến 25%); dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290% (khuyến nghị của WB là trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước 5,1% (ngưỡng an toàn của WB là dưới 35%)…
Cũng theo bản tin số 5, các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%.
Không kể nợ được Chính phủ bảo lãnh, trong tổng số dư nợ nước ngoài Chính phủ gần 23,943 tỷ USD, có đến 19,325 tỷ USD lãi suất từ 1-2,99%; trên 1,5 tỷ USD lãi suất từ 3-5,99%; 281,7 triệu USD lãi suất 0-99% và 919 triệu USD ở mức lãi suất 6-10%. Ngoài ra, hơn 1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo lãi suất liên ngân hàng của thị trường London (LIBOR).
Cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ.
Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR (quyền rút vốn đặc biệt - đơn vị tiền tệ quy ước của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế) chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ.
Cũng theo Cục trưởng Đô, các dự án có vốn vay nước ngoài chủ yếu thuộc ngành năng lượng, giao thông vận tải, thủy sản, trồng rừng…
“Đến giờ phút này, những dự án nói chung hoạt động có hiệu quả. Theo các đánh giá độc lập, tỷ lệ nợ xấu chỉ khoảng 0,8%, mức rất thấp nếu so với chỉ tiêu tương ứng trong hệ thống ngân hàng nói chung”, ông Đô phát biểu với báo chí.
Dự kiến nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, tính cả gốc và lãi, sẽ vượt 1 tỷ USD trong năm nay; tăng trong các năm tiếp theo mà đỉnh điểm lên đến trên 2 tỷ USD vào năm 2016, trước khi giảm trở lại.
Cục trưởng Đô cho rằng, nghĩa vụ trả nợ vẫn trong tầm kiểm soát và Việt Nam không chậm trả các khoản nợ đến hạn.
Dư nợ, lãi suất, nghĩa vụ trả đều tăng nhanh
Nhưng, việc quản lý nợ nước ngoài quốc gia đang phải đối mặt với không ít thách thức. Để bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và bù đắp thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài quốc gia đã tăng đáng kể chỉ trong vài năm trở lại đây.
So với thời điểm cuối năm 2005, con số gần 28 tỷ USD nợ nước ngoài quốc gia tính đến 31/12/2009 đã gấp gần 2 lần (so với 14,2 tỷ USD), sau khi hàng loạt các khoản vay của WB, ADB, Nhật Bản… được chuyển vào ngân sách trong năm vừa qua.
Trong khi đó, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP thế nào là an toàn cũng chỉ là tương đối, đặc biệt sau nhiều cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới thời gian qua.
“Với mức nợ nào đó, nước này là thích hợp, ví dụ Nhật Bản là trên 100% GDP mà không vỡ nợ, nhưng nước khác chỉ 60% có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công”, ông Đô cho biết.
Hơn nữa, một số chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài không được bền vững. Với mức thâm hụt cán cân thanh toán 8,8 tỷ USD vào năm ngoài, dự trữ ngoại hối đã giảm xuống chỉ còn 7-9 tuần nhập khẩu, từ mức 12 tuần trước đó.
Tác động đến tương quan giữa dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn, chỉ tiêu này từ gấp 28 lần vào cuối năm 2008, chỉ còn hơn gần 3 lần tính đến 31/12/2009. Trước đó, đỉnh điểm là vào cuối 2007, chỉ tiêu này gấp gần 102 lần.
Lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ cũng có xu hướng tăng lên, sau khi Việt Nam được cho là đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, nhiều đối tác đã chuyển từ quan hệ cho vay ODA sang hình thức ít ưu đãi hơn.
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm nay đạt tới 2,1%/năm.
Thêm vào đó, hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam còn thấp. Lợi suất lên đến hơn 7% đối với khoản 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ ngoại tệ được phát hành ra thị trường quốc tế vào đầu năm nay lý giải phần nào nhận định này.
Trong một hội thảo mới đây, trả lời chuyên gia Võ Trí Thành vì sao Việt Nam không phát hành trái phiếu quốc tế khi bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS, một loại chứng khoán phái sinh nhằm bảo hiểm cho một khoản vay) còn thấp trong năm 2009, mà để đến khi giá CDS đã lên cao mới phát hành, ông Đô cho biết đã làm đúng như vậy, nhưng chỉ thiếu cái “nhấn nút” cuối cùng. Điều này cũng hàm ý, cơ quan quản lý nợ chưa có thực quyền và khung pháp lý quản lý nợ cần tiếp tục được hoàn thiện.
Vấn đề còn lại là Việt Nam đã quan tâm thế nào đến huy động vốn trong nước, thay vì chú trọng vào các khoản ngoại tệ thu được từ đối tác cho vay? Đành rằng ngoại tệ có thể giúp cân bằng cán cân thanh toán, nhưng nợ trong nước mới chiếm khoảng 40% tổng dư nợ Chính phủ cũng cần phải được nhìn nhận lại.
* Bạn đọc có thể download bản tin số 5 về nợ nước ngoài của Việt Nam
tại đây
.
Người đứng đầu Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phát huy tinh thần trách nhiệm, quyết liệt hành động, coi kết quả giải ngân là tiêu chí đánh giá năng lực, đạo đức công vụ; nhấn mạnh “thiếu trách nhiệm, sai phạm thì xử lý; chậm trễ, vô cảm thì thay thế”.
Số liệu cho thấy, Khu vực 3 gồm các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu có tiềm năng lớn về nông nghiệp, thủy điện, du lịch và khoáng sản nhưng nguốn vốn huy động tại chỗ không thể đáp ứng nhu cầu. Đây là tình trạng không phải hiếm gặp trên cả nước...
Dù vậy, cả tuần này, giá vàng giao ngay tăng 4,9% và giá vàng giao ngay quy đổi tăng 7,3 triệu đồng/lượng...
Kết thúc 9 tháng năm 2025, Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB) hoàn thành vượt mọi chỉ tiêu kinh doanh 2025 đã đặt ra, khẳng định chiến lược đúng đắn và tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn bứt phá.
9 tháng năm 2025, tổng lượng kiều hối chuyển về qua các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế tại TP. Hồ Chí Minh đạt 7,969 tỷ USD. Đáng chú ý, kiều hối từ các quốc gia châu Phi chuyển về có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đạt 150,3% so với cùng kỳ…
Tiêu điểm
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: