Rà soát Luật sĩ quan để đồng bộ với hệ thống pháp luật
Thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 8, chiều 28/10, Quốc hội họp phiên toàn thể tại Hội trường Diên Hồng, nghe cơ quan soạn thảo và thẩm tra báo cáo về dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam...
Tại phiên họp, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang đã trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT ĐỂ PHÙ HỢP VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
Tờ trình nêu rõ, từ khi Luật Sĩ quan năm 1999 có hiệu lực thi hành (ngày 01/4/2000), nhiều chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành, như Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Dân quân tự vệ năm 2019, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Khám chữa bệnh năm 2023, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp năm 2024, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024... có quy định liên quan hoặc tác động đến đối tượng là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành và tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, việc sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về xây dựng đội ngũ sĩ quan.
Bố cục của dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 2 điều: Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Việt Nam số 16/1999/QH10, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 19/2008/QH12 và Luật số 72/2014/QH13 và Điều 2. Hiệu lực thi hành.
RÀ SOÁT ĐỂ ĐẢM BẢO SỰ ĐỒNG BỘ
Thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, việc ban hành Luật nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh; tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhất trí việc bổ sung chức vụ, chức danh đối với cấp phó của cấp trưởng và tương đương; đồng thời cho rằng, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện hành quy định chức vụ cơ bản của sĩ quan là cấp trưởng, không quy định đối với cấp phó, nên việc xác định chức vụ, chức danh tương đương đối với cấp phó và sĩ quan không giữ chức vụ chỉ huy, quản lý gặp khó khăn, chưa đảm bảo hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện quy hoạch, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm và thực hiện chế độ chính sách đối với sĩ quan được bổ nhiệm chức vụ là cấp phó của cấp trưởng và tương đương.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh cơ bản nhất trí việc sửa đổi khoản 1 Điều 13 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng nâng hạn tuổi phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam các mức khác nhau (Cấp úy: 50; Thiếu tá: 52; Trung tá: 54; Thượng tá: 56; Đại tá: 58; Cấp Tướng: 60), bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng về điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và thống nhất với quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về độ tuổi nghỉ hưu, bảo đảm cho sĩ quan Quân đội nhân dân tham gia đóng bảo hiểm xã hội đủ điều kiện được hưởng tối đa 75% lương theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phù hợp với quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng về hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của quân nhân chuyên nghiệp.
Việc tăng tuổi phục vụ tại ngũ của đội ngũ sĩ quan còn nhằm phát huy năng lực, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, góp phần giảm áp lực đào tạo cán bộ và phù hợp tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.
Bên cạnh đó, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo làm rõ thêm về việc thực hiện chế độ, chính sách, bảo hiểm xã hội sau khi tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, tác động về sức khỏe khi hoạt động trong môi trường lao động đặc thù (lực lượng vũ trang). Đồng thời xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của sĩ quan nữ cấp bậc quân hàm Đại tá để phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội, đảm bảo bình đẳng giới và tận dụng nguồn nhân lực nữ có trình độ, kinh nghiệm trong quân đội.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh cơ bản nhất trí việc sửa đổi, bổ sung Điều 15 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng giao Chính phủ quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng và cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại, bổ sung chức năng, nhiệm vụ nhưng không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị rà soát, nghiên cứu, bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về các tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng quân hàm sĩ quan vượt bậc, làm căn cứ để Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể; nghiên cứu, bổ sung quy định thăng cấp bậc hàm trước thời hạn không quá 12 tháng vào dự thảo Luật này; đối với trường hợp không đủ 03 năm công tác do Chủ tịch nước quyết định, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung thời gian công tác tối thiểu còn lại để bảo đảm chặt chẽ và thống nhất trong triển khai thực hiện...