Tăng trưởng dựa vào tài chính - tiền tệ: Con đường không dễ đi
Chính sách tài chính - tiền tệ thường có độ trễ nên đóng góp vào tăng trưởng 6 tháng cuối năm còn hạn chế
Trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, việc dựa vào các giải pháp tài chính - tiền tệ trước mắt có thể đạt được tăng trưởng nhưng chính sách này thường có độ trễ nên đóng góp vào tăng trưởng 6 tháng cuối năm còn hạn chế, hơn nữa rất nhiều chỉ số trên thị trường tài chính - tiền tệ đang trong tầm “quan sát”.
Đây là thông tin được
các chuyên gia đưa ra tại hội thảo “Chính sách tài chính - tiền tệ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2017” do Học viện Chính sách và Phát triển
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức cuối tuần qua.
Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2017 đạt 5,73%, cao hơn không đáng kể so với 6 tháng đầu năm 2016 (5,65%), thấp hơn so với bình quân 2011-2016 và thấp hơn mục tiêu tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2017.
“Vì vậy, cần một
sự bứt phá mạnh mẽ trong 6 tháng cuối năm, tối thiểu 7,4% để đạt mục tiêu 6,7%
cả năm. Song điều này là không dễ”, ông Đào Văn Hùng, Giám đốc Học viện Chính
sách và Phát triển, nhận định.
Thứ nhất, trong ngắn hạn, tăng cung tiền M2 sẽ làm lạm phát tăng cao và nhanh nhưng tăng cung tiền ở mức hợp lý thì sẽ giúp ổn định và kiểm soát lạm phát. Mức cung tiền 6 tháng đầu năm khoảng 5,69%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu cả năm là 16-18%. Vì vậy, còn có thể tăng cung tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2017.
Tuy nhiên, CPI bình quân 6 tháng đầu năm của Việt Nam đã tăng 4,15% so với cùng kỳ năm 2016, và cao hơn mức trung bình của khu vực. “Vì vậy tăng M2 cần hết sức thận trọng lựa chọn các kênh tăng cung tiền phù hợp”, ông Hùng cho biết.
Thứ hai, áp lực tăng tỷ giá trong thời gian tới là rất lớn, nguyên nhân là bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất, cùng với đó chính sách điều chỉnh thuế biên giới của Mỹ cũng tác động đến tăng lãi suất của việt Nam.
Nếu Việt Nam không kiểm soát tốt và để tỷ giá tăng quá cao sẽ tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm. “Để tỷ giá không tác động
đến tăng trưởng, Việt Nam cần thực hiện chính sách kiểm soát tỷ giá trong biên
độ phù hợp từ 2-3%” - ông Đào Văn Hùng nhấn mạnh.
Thứ ba, mặc dù gần đây Ngân hàng Nhà nước có động thái giảm mức lãi suất điều hành 0,25 điểm phần trăm và 0,5 điểm phần trăm trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng của một số lĩnh vực ưu tiên (vào ngày 7/7/2017) nhằm tạo cho ngân hàng thương mại cơ hội giảm lãi suất cho vay và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
Theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Giám đốc Trường Đào tạo BIDV, mặc dù lãi suất 6 tháng đầu năm tương đối ổn định song trên thực tế, đang có áp lực tăng nhẹ trong cho vay ở những kỳ hạn dài.
Cụ thể, lãi suất cho vay kỳ hạn dưới
6 tháng có xu hướng đi ngang thì ở kỳ hạn trên 6 tháng đã tăng nhẹ khoảng
0,2-0,5%/năm. “Huy động vốn tăng trưởng chậm hơn so với cùng kỳ năm 2016 trong
khi tín dụng tăng trưởng cao nhất trong vòng 6 năm trở lại đây. Hệ số tín dụng/vốn
huy động tăng nhẹ 1,53% so với cuối năm 2016”, ông Lực phân tích.
Hơn nữa, theo ông Hùng, nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và GDP giai đoạn quý 1/2000 đến quý 1/2017 cho thấy, do đặc thù của kinh tế Việt Nam, tín dụng ngân hàng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế khoảng 10,6% với độ trễ 2 quý; 19,7% với độ trễ 3 quý; 21,13% với độ trễ 4 quý; 26,5% với độ trễ 8 quý và sau đó giảm dần.
“Vì vậy, kỳ vọng tăng trưởng tín dụng để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm là hạn chế, do độ trễ tín dụng đến
GDP là khoảng 1 năm, nhưng các chính sách tín dụng vào những tháng cuối năm sẽ
tạo đà cho tăng trưởng vào năm 2018”, ông Hùng khẳng định.
Ở góc độ khác, ông Lực cho biết mặc dù vẫn còn dư địa để
tăng trưởng tín dụng (18-20% năm 2017) nhưng cần phải kiểm soát chặt chẽ chất
lượng tín dụng, hướng dòng vốn vào khu vực sản xuất. “Mức tăng trưởng tín dụng
này là rất rủi ro cho thị trường. Hơn nữa việc giao quota tăng trưởng cho các
ngân hàng cũng không hợp lý”, ông Lực bày tỏ.
Thứ tư, ông Hùng cho biết nghiên cứu số liệu về ngân sách Nhà nước và chi tiêu thường xuyên của Chính phủ 2001-2016 cho thấy tỷ lệ thu ngân sách/GDP tăng và tăng chi tiêu thường xuyên sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, trong những tháng đầu năm, chi thường xuyên vẫn tăng gần 10% so với
cùng kỳ. Thậm chí, theo ông Lực, cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước của Việt
Nam có thay đổi trong vòng 3 năm qua nhưng đáng tiếc lại theo chiều hướng kém
tích cực.
“Không còn nhiều dư địa về trần nợ công và bội chi để mở rộng tài khoá. Việt Nam chỉ còn cách thúc đẩy tăng trưởng thông qua điều chỉnh cơ cấu thu-chi, tăng tốc độ giải ngân vốn đầu tư công và đặc biệt nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn đầu tư”, ông Hùng khuyến nghị.