Dự thảo Nghị định quản lý dịch vụ internet và thông tin trên mạng: Cần tránh tình trạng bảo hộ ngược
Dường như các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ xuyên biên giới được áp dụng các biện pháp quản lý thông thoáng, nhẹ nhàng và ít nghĩa vụ so với các doanh nghiệp trong nước…
Góp ý Dự thảo Nghị định quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng cơ quan soạn thảo cần rà soát lại tất cả các quy định quản lý với loại hình trong nước và nước ngoài, loại bỏ các nghĩa vụ của doanh nghiệp nội địa so với doanh nghiệp xuyên biên giới…
DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC CHỊU "GÁNH NẶNG" NGHĨA VỤ HƠN
Cụ thể, Dự thảo đưa ra các biện pháp, điều kiện quản lý các chủ thể cung cấp thông tin, phân biệt theo loại hình cung cấp. Trong đó Điều 26 điều chỉnh với các loại hình cung cấp xuyên biên giới và Điều 27 điều chỉnh với các loại hình cung cấp dịch vụ trong nước.
So sánh quy định điều chỉnh giữa các chủ thể này, có thể thấy dường như các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ xuyên biên giới được áp dụng các biện pháp quản lý thông thoáng, nhẹ nhàng và ít nghĩa vụ so với các doanh nghiệp trong nước.
Phân tích chi tiết, VCCI chỉ rõ, với quy định về cấp phép với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp xuyên biên giới chỉ cần cung cấp thông tin liên hệ, và chỉ cần khi đạt ngưỡng 100.000 lượt truy cập hàng tháng từ Việt Nam.
Còn doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện thủ tục thông báo, bất kể quy mô và sẽ phải thực hiện thủ tục cấp phép khi đạt ngưỡng 10.000 lượt truy cập hàng tháng. Như vậy, ngưỡng quy mô được coi là lớn với doanh nghiệp Việt Nam so với doanh nghiệp nước ngoài có sự chênh lệch rất lớn (chỉ bằng 1/10).
Tuy nhiên, vấn đề nội dung xấu của các mạng xã hội xuất phát chủ yếu từ hiệu ứng mạng lưới khi tin giả có thể lan truyền nhanh chóng trong mạng lưới nhiều người dùng. Do vậy, việc quản lý với doanh nghiệp nên phụ thuộc vào số lượng người dùng, mà không nên phân biệt giữa trong nước và nước ngoài.
“Có thể, cơ quan soạn thảo cho rằng ngưỡng 10.000 là phù hợp vì chỉ một số ít các mạng xã hội trong nước đạt ngưỡng này. Nhưng nếu lượng truy cập vào các mạng xã hội trong nước thấp như vậy, thì các mạng xã hội này tương đối nhỏ trên thị trường Việt Nam, không có ảnh hưởng quá lớn đến các lợi ích công và do đó không cần phải áp dụng biện pháp cấp phép”, VCCI nhận xét.
Bên cạnh đó, Dự thảo cũng quy định nhiều nghĩa vụ với mạng xã hội trong nước mà các mạng xã hội nước ngoài không phải đáp ứng. Chẳng hạn, hệ thống kỹ thuật lưu trữ tối thiểu 02 năm; phương án dự phòng bảo đảm duy trì an toàn, liên tục; lưu trữ nhiều thông tin cá nhân hơn, trong đó có số chứng minh nhân dân, nơi cấp, ngày cấp.
Dự thảo đưa ra hạn chế về tính năng cung cấp cho người dùng với mạng xã hội trong nước. Như phải thu thập đầy đủ thông tin người dùng theo yêu cầu trước khi cung cấp các tính năng chủ yếu như viết bài, chia sẻ…; và chỉ được cung cấp tính năng livestream khi đã được cấp phép.
Dự thảo cũng đặt ra yêu cầu khó kiểm soát với doanh nghiệp trong nước, như không cho đăng bài dưới hình thức phóng sự, điều tra, phỏng vấn, mà không rõ cách thức nào các doanh nghiệp có thể phân biệt các nội dung giữa luồng thông tin khổng lồ được đăng tải hàng ngày.
VCCI nhận định, các quy định như vậy sẽ khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam bị cạnh tranh ngược với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam. Nếu các quy định phù hợp để quản lý các doanh nghiệp xuyên biên giới thì các quy định này cũng sẽ có hiệu quả để quản lý các doanh nghiệp trong nước, thậm chí hiệu quả hơn.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường là các doanh nghiệp nhỏ, nguồn lực ít, phải đi vào thị trường ngách và cần dựa vào thị trường trong nước để phát triển. Các quy định về điều kiện kinh doanh chặt chẽ và quá nhiều nghĩa vụ sẽ khiến các doanh nghiệp tốn nhiều chi phí tuân thủ trong khi phải đối đầu bài toán kinh doanh trong thị trường có nhiều ông lớn toàn cầu, và vô tình khiến các doanh nghiệp nội địa khó có thể phát triển trên chính sân nhà.
ĐỀ XUẤT BỎ QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN CỦA GIẤY PHÉP
Ngoài ra, về thời hạn giấy phép kinh doanh các loại hình trên internet, Dự thảo quy định cấp phép cho các loại hình kinh doanh trên internet với thời hạn 5 năm, như giấy phép trang thông tin điện tử, giấy phép mạng xã hội, giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử.
Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, thời hạn các giấy phép này là không cần thiết. Các điều kiện cấp phép là các yêu cầu doanh nghiệp cần chuẩn bị trước khi đi vào hoạt động, và sẽ được duy trì liên tục trong quá trình hoạt động.
Cơ quan nhà nước có quyền thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp và có thể rút giấy phép bất kỳ lúc nào nếu doanh nghiệp không duy trì các điều kiện này, mà không cần phải yêu cầu doanh nghiệp thực hiện cấp phép lại.
“Thời hạn 5 năm là quá ngắn và sẽ gây tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp mỗi lần cấp phép, đồng thời cũng không tạo ra sự ổn định của môi trường kinh doanh để doanh nghiệp đầu tư lớn và lâu dài vì không rõ có tiếp tục được kinh doanh sau khi hết thời gian giấy phép hay không”, VCCI góp ý.
Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định về thời hạn của giấy phép. Nếu không, đề nghị giữ nguyên thời hạn giấy phép 10 năm như Nghị định 72/2013/NĐ-CP để đảm bảo tính ổn định của pháp luật và môi trường kinh doanh.