Không phân biệt đối xử về giá bán khi cung cấp dịch vụ bán buôn viễn thông
Doanh nghiệp bán buôn có trách nhiệm không phân biệt đối xử về mức giá bán và các điều khoản và điều kiện dịch vụ khi cung cấp dịch vụ bán buôn; Cung cấp dịch vụ bán buôn cho doanh nghiệp mua buôn với cùng mức giá bán và các điều khoản, điều kiện dịch vụ tương đương với các dịch vụ do doanh nghiệp bán buôn cung cấp cho chính mình, cho công ty con của mình, đối tác kinh doanh của mình và cho doanh nghiệp mua buôn khác...
Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Thông tư quy định chi tiết hoạt động bán buôn trong viễn thông, được quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản 2 Điều 16 và Điểm d Khoản 3 Điều 17 Luật Viễn thông số 24/2023/QH15 (sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024).
Thông tư này áp dụng đối với các doanh nghiệp viễn thông tham gia vào hoạt động bán buôn trong viễn thông; các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ viễn thông tại Việt Nam.
Dự thảo Thông tư nêu rõ hai nghĩa vụ: không phân biệt đối xử và minh bạch khi tham gia hoạt động bán buôn. Cụ thể, doanh nghiệp bán buôn có trách nhiệm không phân biệt đối xử về mức giá bán và các điều khoản và điều kiện dịch vụ khi cung cấp dịch vụ bán buôn.
Cùng với đó cung cấp dịch vụ bán buôn cho doanh nghiệp mua buôn với cùng mức giá bán và các điều khoản và điều kiện dịch vụ tương đương với các dịch vụ do doanh nghiệp bán buôn cung cấp cho chính mình, cho công ty con của mình, đối tác kinh doanh của mình và cho doanh nghiệp mua buôn khác.
Các khác biệt về mức giá bán, các điều kiện và điều khoản dịch vụ cho các dịch vụ tương đương phải dựa trên các khác biệt khách quan, gồm: sự thay đổi trong chi phí cung cấp dịch vụ; thay đổi về số lượng hoặc chất lượng dịch vụ được cung cấp; thay đổi về thời hạn của hợp đồng dịch vụ.
Doanh nghiệp bán buôn có trách nhiệm minh bạch các thông tin liên quan đến dịch vụ mà doanh nghiệp mua buôn yêu cầu cung cấp. Các thông tin này bao gồm: Mức giá cung cấp dịch vụ thông qua việc thực hiện thủ tục kê khai giá theo quy định tại pháp luật về giá; Thông tin về thông số kỹ thuật, đặc điểm mạng...cũng như các điều khoản và điều kiện cụ thể để cung cấp và sử dụng dịch vụ.
Đồng thời phải minh bạch thỏa thuận cung cấp dịch vụ mẫu theo quy định tại Thông tư này, trong trường hợp hai bên doanh nghiệp không tự đạt được thỏa thuận.
Cũng theo dự thảo Thông tư, dịch vụ viễn thông cần phải được cung cấp dưới hình thức thoả thuận cung cấp dịch vụ là dịch vụ viễn thông thuộc Danh mục thị trường dịch vụ viễn thông Nhà nước quản lý. Danh mục thị trường dịch vụ viễn thông Nhà nước quản lý theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Với dịch vụ thuê sử dụng mạng cáp trong tòa nhà, thuê hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư này.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày doanh nghiệp viễn thông được xác định là doanh nghiệp viễn thông thống lĩnh thị trường đối với dịch vụ viễn thông thuộc Danh mục thị trường dịch vụ viễn thông Nhà nước quản lý, doanh nghiệp phải xây dựng, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu chính về Cục Viễn thông 1 bộ hồ sơ thông báo thỏa thuận cung cấp dịch vụ mẫu.
Các doanh nghiệp viễn thông không phải là doanh nghiệp viễn thông thống lĩnh thị trường có thể tự xây dựng, ban hành thỏa thuận cung cấp dịch vụ mẫu, không cần thông báo với Cục Viễn thông, trên cơ sở tuân thủ theo các quy định tại Thông tư này để áp dụng chung với các doanh nghiệp viễn thông.
Trường hợp doanh nghiệp viễn thông không phải là doanh nghiệp viễn thông thống lĩnh thị trường không tự đạt được Thỏa thuận cung cấp dịch vụ với doanh nghiệp mua buôn, Cục Viễn thông sẽ yêu cầu doanh nghiệp xây dựng thỏa thuận cung cấp dịch vụ mẫu và gửi cho Cục theo quy định.
Về quản lý giá dịch vụ bán buôn, dự thảo nêu nguyên tắc quản lý và căn cứ xác định giá dịch vụ bán buôn tuân thủ quy định tại Điều 57 và Điều 58 Luật Viễn thông số 24/2023/QH15 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Doanh nghiệp bán buôn đối với các dịch vụ thuộc Danh mục thị trường dịch vụ viễn thông Nhà nước quản lý có trách nhiệm kê khai giá theo quy định của pháp luật về giá.
Đồng thời thực hiện phương pháp định giá dịch vụ viễn thông và các quy định quản lý giá dịch vụ viễn thông theo quy định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.