Ngân hàng được giãn trích lập dự phòng nợ cơ cấu trong 3 năm
Đến cuối năm 2023, các tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng nợ cơ cấu đầy đủ 100%
Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 03/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Theo thông tư này, các tổ chức tín dụng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khoản nợ phát sinh trước ngày 10/6/2020 từ hoạt động cho vay, thuê tài chính và phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2020 đến 31/12/2021.
Đồng thời, tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng không có khả năng trả nợ lãi đúng hạn theo hợp đồng, thu nhập sụt giảm bởi ảnh hưởng của dịch bệnh. Bổ sung thêm điều kiện khách hàng có đề nghị được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng có khả năng trả nợ đẩy đủ theo thời hạn được cơ cấu.
Bên cạnh đó, thông tư cũng bổ sung, sửa đổi điều khoản về việc miễn giảm lãi, phí. Cụ thể, tổ chức tín dụng quyết định việc miễn giảm lãi phí theo quy định nội bộ đối với số dư nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng (trừ hoạt động mua, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp) mà nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi đến hạn thanh toán trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2020 đến 31/12/2021 thay cho mốc 3 tháng kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ công bố hết dịch Covid-19 như thông tư ban đầu.
Việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng và việc thực hiện miễn, giảm lãi phí đều sẽ kéo dài đến ngày 31/12/2021.
Tổ chức tín dụng được giữ nguyên nhóm nợ đã phân loại theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại thời điểm gần nhất trước ngày 23/1/2020 đối với số dư nợ của khoản nợ phát sinh trước ngày 23/1/2020 thuộc diện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, bao gồm cả phần dư nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi và điều chỉnh nhóm nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2020 đến ngày 29/3/2020.
Ngoài ra ngân hàng cũng được giữ nguyên nhóm nợ đã phân loại theo quy định với số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi của khoản nợ phát sinh từ 23/1/2020 đến trước ngày 10/6/2020 theo quy định của thông tư.
Đối với số dư nợ sau khi cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ còn trong hạn theo thời hạn cơ cấu lại, tổ chức tín dụng không phải áp dụng nguyên tắc điều chỉnh, phân loại lại vào nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Đối với số dư nợ sau khi cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ bị quá hạn theo thời hạn cơ cấu lại mà không được tổ chức tín dụng tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định tại thông tư này, tổ chức tín dụng phải thực hiện phân loại nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Đối với số lãi phải thu của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi và giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1) theo quy định tại thông tư, từ ngày được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng không hạch toán thu nhập mà theo dõi ngoại bảng để đôn đốc thu; thực hiện hạch toán vào thu nhập khi thu được theo quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng.
Kể từ 1/1/2024, các tổ chức tín dụng căn cứ quy định của Ngân hàng Nhà nước để phân loại đối với toàn bộ dư nợ, cam kết ngoại bảng của khách hàng, bao gồm cả số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định tại Thông tư.
Đáng chú ý, về việc giữ nguyên nhóm nợ và phân loại nợ được bổ sung thêm quy định trích lập dự phòng rủi ro, tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập số tiền dự phòng cụ thể đối với toàn bộ dư nợ của khách hàng theo kết quả phân loại nợ đối với phần nợ được giữ nguyên nhóm nợ và kết quả phân loại nợ đối với dư nợ còn lại của khách hàng.
Đồng thời, các tổ chức tín dụng sẽ phải xác định số tiền dự phòng phải trích đối với toàn bộ dư nợ của khách hàng theo kết quả phân loại nợ nhưng không áp dụng quy định giữ nguyên nhóm nợ; từ đó, xác định số tiền dự phòng cụ thể phải trích bổ sung.
Trường hợp số tiền dự phòng cụ thể phải trích bổ sung dương, đến cuối năm 2021, các tổ chức tín dụng phải trích được tối thiểu 30% số tiền phải trích bổ sung. Đến cuối năm 2022 phải trích tối thiểu 60% và đến cuối năm 2023 phải trích đầy đủ 100%.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 17/5/2021.