Thoái vốn Nhà nước: Không nên “bắn chỉ thiên” mãi
Phó chủ tịch VAFI cho rằng cần sớm có chế tài xử phạt đối với việc chậm thoái vốn
“Tôi cho rằng, cần có chế tài với việc chậm thoái vốn, chứ không nên để “bắn chỉ thiên” mãi như vậy”, Phó chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) Nguyễn Hoàng Hải nêu quan điểm xung quanh việc thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trong giai đoạn tới.
Thủ tướng Chính phủ mới đây đã ban hành Quyết định 58 nhằm thúc đẩy việc thoái vốn Nhà nước trong giai đoạn từ nay đến 2020. Ông đánh giá điều này như thế nào?
Quyết định số 58 vừa ban hành của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước và danh mục doanh nghiệp Nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020 đã quy định chi tiết tỷ lệ vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp.
Cụ thể, trong giai đoạn này, Chính phủ sẽ sắp xếp 240 doanh nghiệp theo cơ quan đại diện chủ sở hữu. Trong đó, có 106 doanh nghiệp mà Nhà nước sẽ nắm giữ 100% cổ phần, chủ yếu là một số doanh nghiệp thuộc ngành đặc thù như an ninh, xổ số…
Nhóm doanh nghiệp Nhà nước dự kiến nắm giữ từ 50 - 65% vốn gồm các tổng công ty như Vinafood 1, Vinafood 2, Mobifone, VNPT, TKV, Petro Vietnam, các tổng công ty điện lực miền Bắc, Trung, Nam, một số công ty cây xanh…
106 doanh nghiệp không thuộc các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Nhà nước dự định nắm giữ dưới 50% là Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Công nghiệp Tàu thuỷ, Vicem, HUD, Lọc dầu Bình Sơn, các tổng công ty phát điện 1-2-3,…
Dựa trên danh sách này, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, các cơ quan đại diện vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa sẽ có định hướng rõ ràng trong việc tái cơ cấu doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cũng có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước một cách cụ thể, thay vì thiếu thông tin như trước đây.
Tuy nhiên, cũng phải nhắc lại rằng, năm 2014 Chính phủ từng ban hành Quyết định 37 về tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp Nhà nước, trong đó doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối rất ít, đồng nghĩa với việc Nhà nước cho phép thoái vốn đa phần tại các doanh nghiệp Nhà nước cả quy mô lớn và nhỏ, nhưng kết quả thoái vốn vẫn rất chậm.
Tôi cho rằng, cần có chế tài với việc chậm thoái vốn, chứ không thể cứ “bắn chỉ thiên” mãi như vậy.
Chủ trương, lộ trình rất rõ ràng, song theo ông, vì đâu việc thoái vốn Nhà nước tại chậm như vậy?
Có nhiều nguyên nhân, nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, cần tìm ra bên mua tiềm năng.
Chúng ta thấy rằng, doanh nghiệp lớn, kinh doanh hiệu quả, nhưng nếu bán mạnh, bán ồ ạt cổ phần, thông qua đấu giá công khai, nhà đầu tư cũng không phải ai cũng muốn mua.
Doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả thì càng khó có người mua. Nếu chỉ dựa vào các nhà đầu tư chứng khoán thì không có khả năng hấp thụ hết được.
Vì thế chúng ta cần chú ý thu hút các nhà đầu tư chiến lược trong, ngoài nước. Có cơ chế thực hiện việc mời gọi và tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia tích cực vào các đợt thoái vốn Nhà nước.
Trên thực tế, việc này hầu như chưa thực hiện được, đơn cử là 10 doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả mà SCIC đang quản lý vốn Chính phủ đã có chủ trương thoái vốn, mới chỉ thực hiện được một chút tại Vinamilk.
VAFI đã nhiều lần lên tiếng về việc thoái vốn tại Sabeco và Habeco. Theo ông nên có giải pháp gì để đảm bảo việc thoái vốn tại hai doanh nghiệp này được thực hiện công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế?
Tôi cho rằng trong đàm phán, không nên giao cho lãnh đạo của các doanh nghiệp thuộc diện thoái vốn tham gia hay chủ trì, vì bên ngoài có thể cho rằng các ông ấy muốn ngồi ghế đó lâu, có thể không muốn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào.
Công chúng có thể đặt câu hỏi, liệu có xung đột lợi ích ở đây?
Nhìn rộng hơn, tôi cho rằng, Chính phủ cũng không nên giao cho cơ quan đại diện vốn Nhà nước, ở đây là Bộ Công Thương toàn quyền chủ trì việc đàm phán, mà nên lập một tổ đàm phán trong đó có Bộ Tài chính chủ trì, còn Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương chỉ là thành viên.
Tổ đàm phán này cần thuê tư vấn quốc tế, để có tiếng nói khách quan, có các cơ sở ra quyết định phù hợp với thông lệ quốc tế và cả luật pháp Việt Nam.
Nhưng nhiều ý kiến e ngại rằng nếu cứ bán phần vốn Nhà nước cho các doanh nghiệp nước ngoài chi phối thì chúng ta sẽ mất các thương hiệu Việt. Ông nghĩ sao?
Đó có lẽ chỉ là những cái cớ để viện dẫn cho việc chậm trễ thoái vốn hoặc vì lợi ích nhóm nào đó.
Thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh tốt, có thị phần lớn trị giá hàng tỷ USD, nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần chi phối là mua thương hiệu đó. Chẳng có lý do gì họ bỏ ra cả tỷ USD mua thương hiệu doanh nghiệp, sau đó lại vứt chúng đi.
Chúng ta không nên lo nghĩ một cách thái quá rằng sau này nhà đầu tư chiến lược vào doanh nghiệp sẽ làm gì, mà chủ yếu nên tính xem nếu đã muốn bán vốn Nhà nước thì bán thế nào cho hiệu quả.
Nếu không nhìn nhận đúng, có khi vốn Nhà nước lại rơi vào “chân gỗ” với giá thấp, và rồi họ lại bán cho nhà đầu tư nước ngoài với giá cao hơn nhiều.
Vậy thì theo ông, nên bán vốn Nhà nước như thế nào cho hiệu quả?
Kinh Đô, Nguyễn Kim, BigC, Diana đều được bán theo hình thức thỏa thuận, đấu thầu nhiều vòng và bán chi phối, và đều được giá cao.
Với các doanh nghiệp sắp thoái vốn, tôi lấy ví dụ trường hợp Habeco, nên tìm những doanh nghiệp các đối tác chiến lược có lợi cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, thương hiệu.
Khi thoái vốn, nếu họ ngỏ ý muốn mua, thì hai bên nên ngồi lại đàm phán để có một mức giá hợp lý, đảm bảo quyền lợi tối ưu phần vốn Nhà nước. Đồng thời, thương hiệu doanh nghiệp có nhiều kỳ vọng tăng trưởng, thậm chí vươn ra thế giới.
Tôi nghĩ bất cứ thoả thuận mua bán cổ phần nào ở các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần phải công khai, minh bạch, tránh lợi ích nhóm.
Nói rộng hơn, việc thoái vốn nếu thật quyết tâm và cầu thị có thể thoái đúng tiến độ, lợi ích thu về của Nhà nước cao nhất có thể.
Thủ tướng Chính phủ mới đây đã ban hành Quyết định 58 nhằm thúc đẩy việc thoái vốn Nhà nước trong giai đoạn từ nay đến 2020. Ông đánh giá điều này như thế nào?
Quyết định số 58 vừa ban hành của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước và danh mục doanh nghiệp Nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020 đã quy định chi tiết tỷ lệ vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp.
Cụ thể, trong giai đoạn này, Chính phủ sẽ sắp xếp 240 doanh nghiệp theo cơ quan đại diện chủ sở hữu. Trong đó, có 106 doanh nghiệp mà Nhà nước sẽ nắm giữ 100% cổ phần, chủ yếu là một số doanh nghiệp thuộc ngành đặc thù như an ninh, xổ số…
Nhóm doanh nghiệp Nhà nước dự kiến nắm giữ từ 50 - 65% vốn gồm các tổng công ty như Vinafood 1, Vinafood 2, Mobifone, VNPT, TKV, Petro Vietnam, các tổng công ty điện lực miền Bắc, Trung, Nam, một số công ty cây xanh…
106 doanh nghiệp không thuộc các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Nhà nước dự định nắm giữ dưới 50% là Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Công nghiệp Tàu thuỷ, Vicem, HUD, Lọc dầu Bình Sơn, các tổng công ty phát điện 1-2-3,…
Dựa trên danh sách này, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, các cơ quan đại diện vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa sẽ có định hướng rõ ràng trong việc tái cơ cấu doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cũng có thể tìm kiếm cơ hội đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước một cách cụ thể, thay vì thiếu thông tin như trước đây.
Tuy nhiên, cũng phải nhắc lại rằng, năm 2014 Chính phủ từng ban hành Quyết định 37 về tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp Nhà nước, trong đó doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối rất ít, đồng nghĩa với việc Nhà nước cho phép thoái vốn đa phần tại các doanh nghiệp Nhà nước cả quy mô lớn và nhỏ, nhưng kết quả thoái vốn vẫn rất chậm.
Tôi cho rằng, cần có chế tài với việc chậm thoái vốn, chứ không thể cứ “bắn chỉ thiên” mãi như vậy.
Chủ trương, lộ trình rất rõ ràng, song theo ông, vì đâu việc thoái vốn Nhà nước tại chậm như vậy?
Có nhiều nguyên nhân, nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, cần tìm ra bên mua tiềm năng.
Chúng ta thấy rằng, doanh nghiệp lớn, kinh doanh hiệu quả, nhưng nếu bán mạnh, bán ồ ạt cổ phần, thông qua đấu giá công khai, nhà đầu tư cũng không phải ai cũng muốn mua.
Doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả thì càng khó có người mua. Nếu chỉ dựa vào các nhà đầu tư chứng khoán thì không có khả năng hấp thụ hết được.
Vì thế chúng ta cần chú ý thu hút các nhà đầu tư chiến lược trong, ngoài nước. Có cơ chế thực hiện việc mời gọi và tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia tích cực vào các đợt thoái vốn Nhà nước.
Trên thực tế, việc này hầu như chưa thực hiện được, đơn cử là 10 doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả mà SCIC đang quản lý vốn Chính phủ đã có chủ trương thoái vốn, mới chỉ thực hiện được một chút tại Vinamilk.
VAFI đã nhiều lần lên tiếng về việc thoái vốn tại Sabeco và Habeco. Theo ông nên có giải pháp gì để đảm bảo việc thoái vốn tại hai doanh nghiệp này được thực hiện công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế?
Tôi cho rằng trong đàm phán, không nên giao cho lãnh đạo của các doanh nghiệp thuộc diện thoái vốn tham gia hay chủ trì, vì bên ngoài có thể cho rằng các ông ấy muốn ngồi ghế đó lâu, có thể không muốn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào.
Công chúng có thể đặt câu hỏi, liệu có xung đột lợi ích ở đây?
Nhìn rộng hơn, tôi cho rằng, Chính phủ cũng không nên giao cho cơ quan đại diện vốn Nhà nước, ở đây là Bộ Công Thương toàn quyền chủ trì việc đàm phán, mà nên lập một tổ đàm phán trong đó có Bộ Tài chính chủ trì, còn Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương chỉ là thành viên.
Tổ đàm phán này cần thuê tư vấn quốc tế, để có tiếng nói khách quan, có các cơ sở ra quyết định phù hợp với thông lệ quốc tế và cả luật pháp Việt Nam.
Nhưng nhiều ý kiến e ngại rằng nếu cứ bán phần vốn Nhà nước cho các doanh nghiệp nước ngoài chi phối thì chúng ta sẽ mất các thương hiệu Việt. Ông nghĩ sao?
Đó có lẽ chỉ là những cái cớ để viện dẫn cho việc chậm trễ thoái vốn hoặc vì lợi ích nhóm nào đó.
Thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh tốt, có thị phần lớn trị giá hàng tỷ USD, nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần chi phối là mua thương hiệu đó. Chẳng có lý do gì họ bỏ ra cả tỷ USD mua thương hiệu doanh nghiệp, sau đó lại vứt chúng đi.
Chúng ta không nên lo nghĩ một cách thái quá rằng sau này nhà đầu tư chiến lược vào doanh nghiệp sẽ làm gì, mà chủ yếu nên tính xem nếu đã muốn bán vốn Nhà nước thì bán thế nào cho hiệu quả.
Nếu không nhìn nhận đúng, có khi vốn Nhà nước lại rơi vào “chân gỗ” với giá thấp, và rồi họ lại bán cho nhà đầu tư nước ngoài với giá cao hơn nhiều.
Vậy thì theo ông, nên bán vốn Nhà nước như thế nào cho hiệu quả?
Kinh Đô, Nguyễn Kim, BigC, Diana đều được bán theo hình thức thỏa thuận, đấu thầu nhiều vòng và bán chi phối, và đều được giá cao.
Với các doanh nghiệp sắp thoái vốn, tôi lấy ví dụ trường hợp Habeco, nên tìm những doanh nghiệp các đối tác chiến lược có lợi cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, thương hiệu.
Khi thoái vốn, nếu họ ngỏ ý muốn mua, thì hai bên nên ngồi lại đàm phán để có một mức giá hợp lý, đảm bảo quyền lợi tối ưu phần vốn Nhà nước. Đồng thời, thương hiệu doanh nghiệp có nhiều kỳ vọng tăng trưởng, thậm chí vươn ra thế giới.
Tôi nghĩ bất cứ thoả thuận mua bán cổ phần nào ở các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần phải công khai, minh bạch, tránh lợi ích nhóm.
Nói rộng hơn, việc thoái vốn nếu thật quyết tâm và cầu thị có thể thoái đúng tiến độ, lợi ích thu về của Nhà nước cao nhất có thể.