Thúc đẩy thương mại, đầu tư Việt Nam – Trung Quốc: Chủ động phòng ngừa và xử lý hiệu quả các tranh chấp
Quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam – Trung Quốc có xu hướng gia tăng về quy mô song các giao dịch cũng có tính phức tạp hơn, nguy cơ tranh chấp rất dễ xảy ra, vì vậy cần có biện pháp phòng ngừa rủi ro và giải quyết tranh chấp hiệu quả…
Phát biểu tại hội thảo “Trọng tài quốc tế: Thuận lợi hoá thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc và Việt Nam” do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế Quốc tế Trung Quốc (CIETAC) phối hợp tổ chức, TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VIAC cho rằng quan hệ thương mại- đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng có xu hướng gia tăng về quy mô.
Năm 2023, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 171,85 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 61,21 tỷ USD, tăng 5,6% so với năm 2022. 2 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại hai bên đạt 27,3 tỷ USD.
Về đầu tư, tính đến tháng 3/2024, vốn đầu tư trực tiếp lũy kế của Trung Quốc vào Việt Nam đạt 27,64 tỷ USD, với tổng số 4.418 dự án đầu tư.
Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Việt Nam cũng cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN. Khi Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có hiệu lực, chắc chắn sẽ mở ra thời kỳ mới, mang đến nhiều cơ hội phát triển hơn.
DỄ XẢY RA RỦI RO PHÁP LÝ
Tuy nhiên tại hội thảo, các luật sư đều nhận định, quan hệ thương mại và đầu tư càng nhiều thì tính chất phức tạp của các giao dịch càng tăng và các tranh chấp cũng dễ xảy ra hơn do có sự khác biệt về hệ thống chính trị, pháp luật và ngôn ngữ.
Lý giải điều này, luật sư Nguyễn Duy Linh, thành viên Công ty Luật TNHH Quốc tế Việt Nam dẫn chứng một số rủi ro pháp lý lớn.
Đó là, rủi ro do xung đột pháp luật và sự thiếu tương thích của các quy định pháp luật, sự thiếu ổn định và hoàn thiện về chính sách cũng như quy định pháp luật và sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Theo ông Linh, quan hệ thương mại và đầu tư nói chung và giữa Việt Nam – Trung Quốc nói riêng có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật nên tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến các xung đột pháp luật.
Cụ thể với quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam – Trung Quốc, thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, Trung Quốc và các hiệp định song và đa phương mà Việt Nam và Trung Quốc là các bên ký kết.
Hiện có ít nhất 10 hiệp định song phương về thương mại đầu tư giữa hai nước, như: Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam và Trung Quốc, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư. Bên cạnh đó là chịu tác động của luật do lựa chọn của các bên trong hợp đồng.
Thứ nữa là rủi ro do sự thay đổi, thiếu hoàn thiện trong chính sách, quy định pháp luật. Nhiều luật mới ban hành, nhiều luật được sửa đổi, nhiều quy định mới chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, các thủ tục hành chính, pháp lý còn phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho hoạt động đầu tư, kinh doanh…
Những rủi ro liên quan đến bảo mật thông tin và rủi ro về giả mạo, lừa đảo trong thương mại, đầu tư quốc tế. Cũng như sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khiến quá trình và kết quả giải quyết tranh chấp kéo dài và khó lường.
Việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, bản án của tòa án nước ngoài còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó là nguy cơ dẫn đến các tranh chấp giữa Chính phủ Việt Nam và Nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông Linh, việc áp dụng, diễn giải pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp một cách thiếu công bằng có thể làm phát sinh tranh chấp giữa chính phủ Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài. Điển hình, từ 2004 đến nay, 11 vụ tranh chấp được ghi nhận giữa nhà đầu tư nước ngoài với chính phủ Việt Nam, trong đó 5 vụ đang diễn ra thì có 2 vụ liên quan đến nhà thầu Trung Quốc.
CHỦ ĐỘNG PHÒNG NGỪA
Để hỗ trợ cho thương mại và đầu tư song phương bền vững, ông Lộc cho rằng cần chú trọng tới việc hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp, nhà đầu tư chủ động phòng ngừa, quản lý rủi ro hợp đồng.
Xử lý hiệu quả các tranh chấp trong các giao dịch thương mại và các hoạt động đầu tư để thúc đẩy các giao thương và đầu tư giữa hai phía. Trọng tài thương mại quốc tế đã được công nhận rộng rãi trên thế giới là một phương thức hữu hiệu giúp giải quyết các giao dịch xuyên biên giới. Đây là một cơ chế tư, lập nên bởi chính các doanh nghiệp, các nhà đầu tư để phục vụ các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch có bản chất hợp đồng.
Trọng tài quốc tế có vai trò trung lập, thực hiện giải quyết tranh chấp thương mại không cần thông qua các thủ tục dân sự tại các tòa án quốc gia, thủ tục trọng tài thương mại có tính chất bảo mật, hiệu quả về thời gian và chi phí; có khả năng thi hành toàn cầu theo cơ chế của Công ước New York 1958.
Đưa ra giải pháp phòng ngừa tranh chấp, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập khuyến nghị, doanh nghiệp cần kiểm tra đầy đủ các điều kiện giao kết, thực hiện giao dịch. Soạn thảo hợp đồng chặt chẽ, rõ ràng, tính đến đầy đủ các khả năng có thể xảy ra. Mặt khác dự kiến trước về cơ chế phù hợp để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh.
Khi đã xảy ra tranh chấp, theo bà Trang cần có giải pháp xử lý thông qua thương lượng, hòa giải hoặc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đã thỏa thuận.
Ông Linh cũng đồng tình cho rằng doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ quy định pháp luật liên quan của nước nơi thực hiện các hoạt động thương mại, đầu tư. Tìm hiểu kỹ thông tin liên quan đến đối tác trước khi giao kết hợp đồng, tiến hành hợp tác đầu tư. Thực hiện các biện pháp bảo mật thông tin kinh doanh, đầu tư.
Mặt khác, rà soát, nghiên cứu kỹ các vấn đề pháp lý liên quan trong quá trình soạn thảo, giao kết và thực hiện hợp đồng. Đồng thời cân nhắc sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý. Cân nhắc việc xây dựng cơ chế phòng ngừa và giải quyết tranh chấp, lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp. Lên kế hoạch, chiến lược hành động rõ ràng và kịp thời khi xảy ra tranh chấp để tránh bị động.