Trái cây bị ép trên sân nhà
Thua trên sân nhà, trái cây Việt Nam cũng lận đận trong tìm đường xuất khẩu
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay sản lượng trái cây cả nước đạt khoảng hơn 7 triệu tấn/năm, xếp hạng thứ 5 ở châu Á.
Trong đó, chỉ có 10% xuất khẩu, 90% phải trông đợi vào thị trường tiêu thụ nội địa, nhưng lại bị trái cây ngoại lấn lướt.
Trong năm 2008, cả nước nhập khẩu gần 400 ngàn tấn hoa quả, với kim ngạch tới 107,5 triệu USD. Trong khi đó, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 277 ngàn tấn. Bình quân lượng nhập khẩu hoa quả vào Việt Nam khoảng 320 ngàn tấn/ năm. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2009 kim ngạch nhập khẩu các loại trái cây đạt 74 triệu USD.
Nhưng, đây chỉ là bề nổi, bởi hoa quả nhập theo đường tiểu ngạch không ai thống kê được. Các loại trái cây mà nước ta đang nhập nhiều là táo, lê, quýt và đào của Trung Quốc; sầu riêng, xoài, măng cụt và vú sữa của Thái Lan; nho, táo của Mỹ và New Zealand.
Yếu thế sân nhà
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hoa quả Việt Nam bị thua ngay trên sân nhà, như chất lượng thấp, kỹ thuật chế biến thủ công...
Song, điều quan trọng nhất là hoa quả trong nước chưa có tính hàng hoá. Theo ông Đoàn Xuân Hoà, Phó cục trưởng Cục Chế biến nông - lâm thuỷ sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cam sành Hà Giang sở dĩ không cạnh tranh được với cam sành Trung Quốc vì nhiều hạt, chất lượng quả không đều; khâu bảo quản sau thu hoạch còn kém.
Một số chủ sạp chuyên doanh trái cây ngoại nhập ở Tp.HCM, nhận xét: mặc dù hàng nhập phải qua quá trình vận chuyển dài, nhưng do được bảo quản trong các xe, kho lạnh nên vẫn giữ được sự tươi mới.
Ngoài ra, về mặt hình thức, hầu hết trái cây ngoại hiện nay đều được đóng thành hộp, trông khá bắt mắt. Bên ngoài hộp có chụp hình loại trái cây, ghi rõ nguồn gốc xuất xứ, ngày xuất đi, thời hạn sử dụng... Trong khi đó, trái cây Việt Nam thường bán xô, để trong sọt, không gây được thiện cảm với người mua...
Thế giới cần, ta chưa có
Thua trên sân nhà, trái cây Việt Nam cũng lận đận trong tìm đường xuất khẩu.
Mặc dù, hiện nay đã có mặt ở hơn 50 quốc gia, vùng lãnh thổ nhưng lượng trái cây Việt Nam còn rất hạn chế. Năm 2008, mới chỉ đạt kim ngạch khoảng 350 triệu USD và dự kiến năm nay cũng chỉ đạt khoảng gần 400 triệu USD.
Lý giải về con số này, nhiều chủ doanh nghiệp cho rằng mặt hàng trái cây thế giới cần ta chưa có. Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó chủ nhiệm hợp tác xã bưởi Năm Roi Mỹ Hoà, cho biết: có tháng, khách hàng ở Tp.HCM đề nghị cung ứng 70 container bưởi Năm Roi (1 container khoảng 16 tấn) để xuất sang châu Âu, nhưng hợp tác xã “lực bất tòng tâm”.
Hiện nay, nhiều địa phương đã có mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, nhưng để phát triển thành vùng chuyên canh lớn dường như vẫn còn là nhiệm vụ “bất khả thi”. Bởi, nhà vườn Việt Nam vẫn sản xuất nhỏ lẻ, sản lượng hạn chế, khó mở rộng diện tích, thiếu vốn đầu tư.
Theo ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông - lâm - thuỷ sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tỷ lệ trái cây Việt Nam đi các nước châu Âu, Mỹ, Nhật Bản... khá khiêm tốn. Hiện, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu trái cây chủ lực của Việt Nam. Nhưng, có một nghịch lý trong thời gian qua là trái cây của ta khi xuất sang Trung Quốc phải mượn tên, mẫu mã, bao bì của Trung Quốc, liên tục bị ép cấp, ép giá, việc xây dựng thương hiệu trái cây Việt Nam ở Trung Quốc rất khó khăn.
Từ ngày 1/7/2009 trở lại đây, với việc thực hiện chính sách kiểm soát nguồn gốc trái cây lẫn nhau giữa hai nước, mặc dù phía Trung Quốc chưa làm chặt, song hầu như các doanh nghiệp mua gom, xuất khẩu trái cây trong nước lại tỏ ra khá e dè, cầm chừng hoạt động, do việc triển khai chứng nhận nguồn gốc khó khăn... Bởi vậy, sản lượng trái cây xuất sang thị trường Trung Quốc đã và đang giảm sút đáng kể.
Đặc biệt, từ tháng 10/2008 đến nay, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, thị trường xuất khẩu giảm sút, để bán được hàng giữa các doanh nghiệp trong nước đã xẩy ra tình trạng bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến hậu quả “tự mình hại ta”.
Ông Huỳnh Quang Đẩu, Giám đốc Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp An Giang, Phó chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết: “Xuất khẩu rau quả 6 tháng đầu năm giảm đến 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, có nguyên nhân doanh nghiệp bán phá giá, tự hại nhau. Chẳng hạn, mặt hàng dứa đông lạnh lâu nay xuất khẩu với giá 1.000 USD/ tấn, nay nhiều doanh nghiệp chào bán chỉ có 850 USD/tấn; mặt hàng rau quả đóng hộp cũng bị nhiều doanh nghiệp chào bán với giá thấp không thể tưởng tượng nổi”.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm thị trường xuất khẩu trái cây bị thu hẹp, trong đó có khoảng 10 thị trường lớn, như Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Hungary, Ấn Độ, UAE, Brazil... không có đơn đặt hàng xuất khẩu. Hiện các doanh nghiệp làm ăn chân chính đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, đơn hàng.
Giải pháp nào?
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra mục tiêu: đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu trái cây của cả nước phải đạt 760 triệu USD và đến năm 2020 là 1,2 tỷ USD. Trong đó, năm 2010 diện tích trồng cây ăn trái là 1 triệu ha, sản lượng khoảng 10 triệu tấn.
Theo các chuyên gia kinh tế nông nghiệp, mục tiêu mà Bộ đưa ra sẽ quá xa vời nếu trái cây Việt Nam không thoát ra khỏi hai “căn bệnh nan y” là “được mùa thì rớt giá” và “trồng rồi lại chặt”.
Theo ông Phan Huy Thông, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, còn quá nhiều bất cập nên chưa thể phát huy được tiềm năng lớn của trái cây Việt Nam. Theo ông, phải giải quyết dứt điểm tình trạng buông lỏng quy hoạch, tránh để xảy ra tình trạng “xé” quy hoạch, nông dân đổ xô trồng những cây ăn quả theo phong trào.
Việc đầu tiên là nhà nước phải quy hoạch lại các vùng trồng cây ăn quả, theo hướng tập trung, có quy mô lớn, bảo đảm các tiêu chuẩn sạch để làm ra lượng sản phẩm dồi dào, đủ sức đáp ứng cho các cơ sở chế biến xuất khẩu nhưng phải đảm bảo tính chất “liên kết vùng”.
Từ đó, mỗi vùng, mỗi tỉnh chỉ được phép chọn trồng một hoặc hai cây chủ lực là đặc sản của vùng miền, có lợi thế cạnh tranh cao để tránh tình trạng nông dân các tỉnh đổ xô vào trồng cùng một loại cây khi có giá cao, sau đó sản lượng dư thừa, giá rớt lại đua nhau đốn hạ như nhiều năm qua.
Để vực dậy thị trường trái cây theo hướng xuất khẩu, ông Đinh Văn Hương - Chủ tịch Hội Rau quả Việt Nam, cho rằng: phải có chính sách và các giải pháp về giống, liên tục lai tạo ra các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đầu tư đồng bộ về công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Đặc biệt, phải xây dựng được những vựa trái cây theo tiêu chuẩn sạch, giá thành hạ... Đây là những yêu cầu sống còn để đưa trái cây Việt Nam xuất ngoại, vì trong tương lai, hầu như các nước đều thắt chặt việc kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh và dư lượng trong trái cây nhập khẩu.
Trong đó, chỉ có 10% xuất khẩu, 90% phải trông đợi vào thị trường tiêu thụ nội địa, nhưng lại bị trái cây ngoại lấn lướt.
Trong năm 2008, cả nước nhập khẩu gần 400 ngàn tấn hoa quả, với kim ngạch tới 107,5 triệu USD. Trong khi đó, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 277 ngàn tấn. Bình quân lượng nhập khẩu hoa quả vào Việt Nam khoảng 320 ngàn tấn/ năm. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2009 kim ngạch nhập khẩu các loại trái cây đạt 74 triệu USD.
Nhưng, đây chỉ là bề nổi, bởi hoa quả nhập theo đường tiểu ngạch không ai thống kê được. Các loại trái cây mà nước ta đang nhập nhiều là táo, lê, quýt và đào của Trung Quốc; sầu riêng, xoài, măng cụt và vú sữa của Thái Lan; nho, táo của Mỹ và New Zealand.
Yếu thế sân nhà
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hoa quả Việt Nam bị thua ngay trên sân nhà, như chất lượng thấp, kỹ thuật chế biến thủ công...
Song, điều quan trọng nhất là hoa quả trong nước chưa có tính hàng hoá. Theo ông Đoàn Xuân Hoà, Phó cục trưởng Cục Chế biến nông - lâm thuỷ sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cam sành Hà Giang sở dĩ không cạnh tranh được với cam sành Trung Quốc vì nhiều hạt, chất lượng quả không đều; khâu bảo quản sau thu hoạch còn kém.
Một số chủ sạp chuyên doanh trái cây ngoại nhập ở Tp.HCM, nhận xét: mặc dù hàng nhập phải qua quá trình vận chuyển dài, nhưng do được bảo quản trong các xe, kho lạnh nên vẫn giữ được sự tươi mới.
Ngoài ra, về mặt hình thức, hầu hết trái cây ngoại hiện nay đều được đóng thành hộp, trông khá bắt mắt. Bên ngoài hộp có chụp hình loại trái cây, ghi rõ nguồn gốc xuất xứ, ngày xuất đi, thời hạn sử dụng... Trong khi đó, trái cây Việt Nam thường bán xô, để trong sọt, không gây được thiện cảm với người mua...
Thế giới cần, ta chưa có
Thua trên sân nhà, trái cây Việt Nam cũng lận đận trong tìm đường xuất khẩu.
Mặc dù, hiện nay đã có mặt ở hơn 50 quốc gia, vùng lãnh thổ nhưng lượng trái cây Việt Nam còn rất hạn chế. Năm 2008, mới chỉ đạt kim ngạch khoảng 350 triệu USD và dự kiến năm nay cũng chỉ đạt khoảng gần 400 triệu USD.
Lý giải về con số này, nhiều chủ doanh nghiệp cho rằng mặt hàng trái cây thế giới cần ta chưa có. Ông Nguyễn Văn Nghĩa, Phó chủ nhiệm hợp tác xã bưởi Năm Roi Mỹ Hoà, cho biết: có tháng, khách hàng ở Tp.HCM đề nghị cung ứng 70 container bưởi Năm Roi (1 container khoảng 16 tấn) để xuất sang châu Âu, nhưng hợp tác xã “lực bất tòng tâm”.
Hiện nay, nhiều địa phương đã có mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, nhưng để phát triển thành vùng chuyên canh lớn dường như vẫn còn là nhiệm vụ “bất khả thi”. Bởi, nhà vườn Việt Nam vẫn sản xuất nhỏ lẻ, sản lượng hạn chế, khó mở rộng diện tích, thiếu vốn đầu tư.
Theo ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông - lâm - thuỷ sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tỷ lệ trái cây Việt Nam đi các nước châu Âu, Mỹ, Nhật Bản... khá khiêm tốn. Hiện, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu trái cây chủ lực của Việt Nam. Nhưng, có một nghịch lý trong thời gian qua là trái cây của ta khi xuất sang Trung Quốc phải mượn tên, mẫu mã, bao bì của Trung Quốc, liên tục bị ép cấp, ép giá, việc xây dựng thương hiệu trái cây Việt Nam ở Trung Quốc rất khó khăn.
Từ ngày 1/7/2009 trở lại đây, với việc thực hiện chính sách kiểm soát nguồn gốc trái cây lẫn nhau giữa hai nước, mặc dù phía Trung Quốc chưa làm chặt, song hầu như các doanh nghiệp mua gom, xuất khẩu trái cây trong nước lại tỏ ra khá e dè, cầm chừng hoạt động, do việc triển khai chứng nhận nguồn gốc khó khăn... Bởi vậy, sản lượng trái cây xuất sang thị trường Trung Quốc đã và đang giảm sút đáng kể.
Đặc biệt, từ tháng 10/2008 đến nay, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, thị trường xuất khẩu giảm sút, để bán được hàng giữa các doanh nghiệp trong nước đã xẩy ra tình trạng bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến hậu quả “tự mình hại ta”.
Ông Huỳnh Quang Đẩu, Giám đốc Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp An Giang, Phó chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết: “Xuất khẩu rau quả 6 tháng đầu năm giảm đến 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, có nguyên nhân doanh nghiệp bán phá giá, tự hại nhau. Chẳng hạn, mặt hàng dứa đông lạnh lâu nay xuất khẩu với giá 1.000 USD/ tấn, nay nhiều doanh nghiệp chào bán chỉ có 850 USD/tấn; mặt hàng rau quả đóng hộp cũng bị nhiều doanh nghiệp chào bán với giá thấp không thể tưởng tượng nổi”.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm thị trường xuất khẩu trái cây bị thu hẹp, trong đó có khoảng 10 thị trường lớn, như Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Hungary, Ấn Độ, UAE, Brazil... không có đơn đặt hàng xuất khẩu. Hiện các doanh nghiệp làm ăn chân chính đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, đơn hàng.
Giải pháp nào?
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra mục tiêu: đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu trái cây của cả nước phải đạt 760 triệu USD và đến năm 2020 là 1,2 tỷ USD. Trong đó, năm 2010 diện tích trồng cây ăn trái là 1 triệu ha, sản lượng khoảng 10 triệu tấn.
Theo các chuyên gia kinh tế nông nghiệp, mục tiêu mà Bộ đưa ra sẽ quá xa vời nếu trái cây Việt Nam không thoát ra khỏi hai “căn bệnh nan y” là “được mùa thì rớt giá” và “trồng rồi lại chặt”.
Theo ông Phan Huy Thông, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, còn quá nhiều bất cập nên chưa thể phát huy được tiềm năng lớn của trái cây Việt Nam. Theo ông, phải giải quyết dứt điểm tình trạng buông lỏng quy hoạch, tránh để xảy ra tình trạng “xé” quy hoạch, nông dân đổ xô trồng những cây ăn quả theo phong trào.
Việc đầu tiên là nhà nước phải quy hoạch lại các vùng trồng cây ăn quả, theo hướng tập trung, có quy mô lớn, bảo đảm các tiêu chuẩn sạch để làm ra lượng sản phẩm dồi dào, đủ sức đáp ứng cho các cơ sở chế biến xuất khẩu nhưng phải đảm bảo tính chất “liên kết vùng”.
Từ đó, mỗi vùng, mỗi tỉnh chỉ được phép chọn trồng một hoặc hai cây chủ lực là đặc sản của vùng miền, có lợi thế cạnh tranh cao để tránh tình trạng nông dân các tỉnh đổ xô vào trồng cùng một loại cây khi có giá cao, sau đó sản lượng dư thừa, giá rớt lại đua nhau đốn hạ như nhiều năm qua.
Để vực dậy thị trường trái cây theo hướng xuất khẩu, ông Đinh Văn Hương - Chủ tịch Hội Rau quả Việt Nam, cho rằng: phải có chính sách và các giải pháp về giống, liên tục lai tạo ra các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đầu tư đồng bộ về công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Đặc biệt, phải xây dựng được những vựa trái cây theo tiêu chuẩn sạch, giá thành hạ... Đây là những yêu cầu sống còn để đưa trái cây Việt Nam xuất ngoại, vì trong tương lai, hầu như các nước đều thắt chặt việc kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh và dư lượng trong trái cây nhập khẩu.