01:02 08/05/2014

Y án tử hình hai bị cáo vụ án Vinalines

Bảo Lam

Chiều ngày 7/5, Toà Phúc thẩm TAND Tối cao đã tuyên án vụ án “tham ô tài sản và cố ý làm trái” tại Vinalines

Bị cáo Dương Chí Dũng (áo trắng), bị cáo Mai Văn Phúc (hàng đầu, áo tím) và các đồng phạm trước vành móng ngựa - Ảnh: TTXVN.
Bị cáo Dương Chí Dũng (áo trắng), bị cáo Mai Văn Phúc (hàng đầu, áo tím) và các đồng phạm trước vành móng ngựa - Ảnh: TTXVN.
Chiều ngày 7/5, Toà Phúc thẩm TAND Tối cao đã tuyên án vụ án “tham ô tài sản và cố ý làm trái” tại Vinalines.

Đầu giờ phiên xử, Chủ toạ phiên toà đọc bản án phúc thẩm, trên cơ sở xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ cũng như diễn biến tại tòa, Hội đồng xét xử Tòa phúc thẩm nhận thấy: chính bị cáo Dương Chí Dũng đã ký văn bản đề nghị Bộ Giao thông Vận tải báo cáo Thủ tướng cho Vinalines phương án xây dựng Nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam. Tuy chưa được thông qua chủ trương nhưng Dũng vẫn yêu cầu Mai Văn Phúc, Tổng giám đốc Vinalines cho xây dựng dự án.

Sau đó Vinalines đã thế chấp tài sản của mình để vay 130 triệu USD của ngân hàng để phục vụ việc mua bán ụ nổi 83M. Do Vinalines là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước nên khối tài sản thế chấp này thuộc sở hữu Nhà nước.

Đủ căn cứ cấu thành tội

Từ căn cứ trên Hội đồng xét xử cho rằng hành vi của các bị cáo đủ căn cứ để cấu thành tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó trách nhiệm cao nhất thuộc về bị cáo Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc, do đó mức phạt 18 năm tù về tội cố ý làm trái đối mà cấp Sơ thẩm đã tuyên là hoàn toàn thỏa đáng.

Liên quan đến tội “Tham ô tài sản”, bản án Phúc thẩm cho rằng đủ căn cứ để khẳng định hành vi tham ô tài sản của các bị cáo Dũng, Phúc, Sơn và Chiều. Trên cơ sở xác xinh cửa cơ quan điều tra và lời khai của các bên liên quan cho thấy, có đủ căn cứ khẳng định lời khai của bị cáo Sơn về việc Dũng và Phúc có thoả thuận với Công ty AP (Singapore) để nhận lại quả 1,66 triệu USD từ thương vụ mua bán ụ nổi 83M.

Bị cáo Sơn khẳng định 3 lần đưa tiền cho bị cáo Phúc, trong đó có lần gặp con trai Phúc là có căn cứ do kết quả xác minh lịch xuất nhập cảnh của con trai Phúc và lời khai của Phúc tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của Sơn.

Việc Sơn không nhớ chính xác cách bài trí trong nhà của Phúc ở quê và không nhớ chính xác ngày, giờ đưa tiền là hoàn toàn hợp lý vì Sơn chỉ đến trong thời gian rất ngắn. Lời khai của Sơn về việc đưa tiền cho bị cáo Dũng cũng hợp lý về mặt thời gian theo xác minh cũng như lời khai của lái xe Quỳnh.

Như vậy Toà sơ thẩm tuyên bị cáo Dũng và Phúc đã nhận 10 tỷ đồng từ bị cáo Sơn là có căn cứ. Tuy nhiên, cấp Sơ thẩm lại không làm rõ việc Hà (chị gái bị cáo Sơn) nhận 2 tỷ đồng từ Sơn là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Trong thời gian giam giữ, bị cáo Dũng bồi thường một khoản tiền bằng 1/2 số tiền mình đã chiếm đoạt và bị cáo Phúc đã bồi thường số tiền bằng 1/3 số mình đã chiếm đoạt. Tuy nhiên số tiền bồi thường này quá nhỏ so với những thiệt hại do hành vi Cố ý làm trái của các bị cáo, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước nên không thể xem xét để giảm nhẹ hình phạt.

Theo đó, y án tử hình đối với bị cáo Dương Chí Dũng về tội tham ô tài sản và 18 năm tù về tội cố ý làm trái, tổng hợp hình phạt là tử hình. Y án tử hình đối với bị cáo Mai Văn Phúc về hành vi tham ô tài sản, 18 năm tù về hành vi cố ý làm trái, tổng hợp hình phạt là tử hình.

Xét xử đúng người, đúng tội

Đối với bị cáo Trần Hải Sơn, Hội đồng xét xử Phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo do đó vẫn giữ nguyên 14 năm tội Tham ô tài sản, 8 năm tù với tội cố ý làm trái, tổng hợp hình phạt 22 năm tù như bản án Sơ thẩm.
 
Hội đồng xét xử phúc thẩm còn cho rằng Sơn là người tích cực trong việc mua ụ nổi 83M và đã nhận được 7 tỷ đồng trong tổng số 1,66 triệu USD, do đó mức án 14 năm với tội tham ô mà cấp Sơ thẩm tuyên là quá nhẹ, cần đề nghị giám đốc thẩm tăng nặng hình phạt.

Đối với bị cáo Trần Hữu Chiều, đủ căn cứ kết luận bị cáo Chiều đã tham ô 340 triệu đồng trong tổng số tiền 1,66 triệu USD.

Tại phiên toà, bị cáo Chiều không nhận tội tham ô là chưa tỏ ra ăn năn hối cải và theo diễn biến tại phiên toà Phúc thẩm không có tình tiết mới để giảm án cho bị cáo, do đó giữ nguyên mức án mà cấp Sơ thẩm đã tuyên là 10 năm tù cho tội tham ô tài sản và 9 năm tù cho tội cố ý làm trái, tổng hợp hình phạt là 19 năm tù.

Bị cáo Mai Văn Khang, tại phiên Phúc thẩm không có căn cứ gì mới để giảm tội cho bị cáo, do đó giữ mức án 7 năm về hành vi cố ý làm trái.

Tương tự, bị cáo Lê Văn Dương (nguyên đăng kiểm viên Chi cục Đăng kiểm số 6, Cục Đăng kiểm Việt nam) cũng không có căn cứ để giảm hình phạt nên giữ nguyên mức án 7 năm tù. Liên quan đến việc này Hội đồng xét xử kiến nghị tiếp tục điều tra làm rõ trách nhiệm của Cục Đăng kiểm Việt Nam trong việc đăng kiểm ụ nổi 83M.

Riêng các bị cáo thuộc nhóm Hải quan do không có tư lợi, chỉ đóng vai trò giúp sức cho các bị cáo khác. Ngoài ra tại phiên toà cả 3 bị cáo đều đã nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải nên có căn cứ giảm một phần hình phạt.

Theo đó, bị cáo Huỳnh Hữu Đức (nguyên Phó chánh Văn phòng Cục Hải quan Khánh Hòa) giảm từ 8 năm tù xuống còn 6 năm tù; Lê Văn Lừng (nguyên cán bộ Chi cục Hải quan Vân Phong, Khánh Hòa) giảm từ 8 năm tù xuống còn 6 năm tù; Lê Ngọc Triện (nguyên Đội trưởng Đội nghiệp vụ Chi cục Hải quan Vân Phong) giảm từ 8 năm tù xuống còn 6 năm tù.

Về phần trách nhiệm dân sự trong vụ án, Hội đồng xét xử cho rằng không có căn cứ tăng hoặc giảm mức bồi thường của các bị cáo.

Về kê biên tài sản theo kháng nghị của bà Phương (vợ bị cáo Dũng), Hội đồng xét xử Phúc thẩm cho rằng căn nhà ở Nguyên Hồng (Hà Nội) được xác định là tài sản chung hợp pháp của bà Phương với bị cáo Dũng nên việc cấp Sơ thẩm không tính trừ 1/2 nhà đất cho bà Phương là không thoả đáng.

Còn căn hộ ở khu chung cư Sky City bà Thảo (bạn gái bị cáo Dũng) đứng tên và đang sử dụng là do Dũng mua nên cấp sơ thẩm kê kiên là phù hợp. Tuy nhiên căn nhà chung cư cao cấp ở toà nhà Pacific có tiền góp của bà Thảo nhưng cấp sơ thẩm không tính trừ là chưa thỏa đáng.