19:17 29/06/2022

Cảnh sát điều tra phát hiện một số đối tượng lừa mua chứng khoán quốc tế, chiếm đoạt tiền

An Nhiên

Theo thông tin từ các Cơ quan Cảnh sát điều tra và đơn từ khiếu nại của nhà đầu tư, một số đối tượng đã thực hiện can thiệp vào giá mã chứng khoán thông qua ứng dụng do các đối tượng này vận hành dẫn đến nhà đầu tư bị thua lỗ rồi lợi dụng chiếm đoạt tiền đầu tư của họ...

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vừa lên tiếng cảnh báo về tình trạng đầu tư chứng khoán quốc tế đang nở rộ tại Việt Nam hiện nay.

Cụ thể, theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, thời gian qua có hiện tượng một số tổ chức, cá nhân tự nhận là công ty chứng khoán quốc tế hoặc đại diện sàn giao dịch chứng khoán quốc tế hoặc tự tổ chức sàn giao dịch chứng khoán quốc tế (BE Exchange, DK-Trade, FTXtrade.com, LCM, Multibankfx,…), kêu gọi, mời chào nhà đầu tư mở tài khoản, gửi tiền vào các ví điện tử, đầu tư vào các loại chỉ số chứng khoán, hợp đồng phái sinh chứng khoán quốc tế trên các sàn giao dịch chứng khoán không phải do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con tổ chức, vận hành.

Hình thức kêu gọi đầu tư phổ biến là thông qua mạng xã hội và trực tiếp điện thoại, nhắn tin. Các đối tượng này hướng dẫn nhà đầu tư mở tài khoản, nạp tiền và thực hiện giao dịch thông qua các website, ứng dụng do các đối tượng này tổ chức, vận hành (MT4, MT5, Tradingview,..).

Theo thông tin từ các Cơ quan Cảnh sát điều tra và đơn từ khiếu nại của nhà đầu tư, một số đối tượng đã thực hiện can thiệp vào giá mã chứng khoán thông qua ứng dụng do các đối tượng này vận hành dẫn đến nhà đầu tư bị thua lỗ rồi lợi dụng chiếm đoạt tiền đầu tư của họ.

Hiện nay, các nhà đầu tư ở Việt Nam tham gia giao dịch, đầu tư vào các sàn giao dịch chứng khoán trực tuyến dưới 2 hình thức trực tiếp và gián tiếp. Đối với phương thức giao dịch đầu tiên, nhà đầu tư mở tài khoản trực tiếp trên website của sàn giao dịch và tự thực hiện hoạt động mua/bán chứng khoán quốc tế.

Trong khi đó, nhà đầu tư đầu tư gián tiếp vào chứng khoán trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài sẽ gửi lệnh mua/bán thông qua cá nhân hoặc tổ chức tự nhận là đại diện của sàn tại Việt Nam và cá nhân/tổ chức này sẽ thay nhà đầu tư chuyển tiền, rút tiền và nhập lệnh lên sàn, thông báo lãi/lỗ, cũng như yêu cầu nhà đầu tư chuyển thêm tiền nếu tài khoản bị lỗ dẫn đến thiếu hụt tài sản ký quỹ.

Theo quy định pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán, ngoài Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán.

Công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép, các cá nhân thực hiện hoạt động môi giới cần đáp ứng tiêu chuẩn nghiệp vụ cũng như được Ủy ban Chứng khoán cấp chứng chỉ hành nghề. Các loại chứng khoán được phép giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam được pháp luật về chứng khoán quy định và phải đáp ứng các điều kiện về niêm yết và đăng ký giao dịch trước khi được đưa vào giao dịch trên các Sở giao dịch chứng khoán.

Nhận thấy rủi ro từ các sàn giao dịch chứng khoán trực tuyến, Uỷ ban Chứng khoán đã có các khuyến cáo nhà đầu tư trên phương tiện thông tin đại chúng, cần cẩn trọng khi tham gia đầu tư trên các sàn giao dịch không phải do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con tổ chức, vận hành. Khi tham gia các sàn giao dịch chứng khoán trực tuyến nêu trên, nhà đầu tư hoàn toàn tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình và không được pháp luật bảo vệ.

Do đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước tiếp tục khuyến cáo nhà đầu tư khi tham gia đầu tư các chứng khoán quốc tế trên các sàn giao dịch không phải do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con tổ chức, vận hành cần hết sức thận trọng, nhất là đối với những lời mời chào lãi suất, lợi nhuận cao, có dấu hiệu không minh bạch, cảnh giác khi nhận được các lời mời đầu tư vào sàn giao dịch chứng khoán quốc tế hay phái sinh quốc tế.

Khi giao dịch cần phải kiểm tra thông tin trên các sàn giao dịch bao gồm cơ quan cấp phép, quản lý sàn, cơ chế giao dịch, quyền và nghĩa vụ các bên để có cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại về mặt tài sản.