Đề xuất giữ lại 50% tín chỉ carbon trong giao dịch quốc tế, tránh rủi ro bán vượt
Tùng Dương
26/09/2025, 07:05
Trên cơ sở nghiên cứu, các chuyên gia đề xuất lộ trình giai đoạn từ nay đến 2030, hoạt động thương mại giao dịch tín chỉ carbon quốc tế của Việt Nam sẽ duy trì tỷ lệ giữ lại ít nhất 50% số tín chỉ. Theo các chuyên gia, quản lý giao dịch tín chỉ carbon cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và việc đạt được các mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam...
Giữ lại 50% tín chỉ carbon giao dịch quốc tế, giúp đảm bảo mục tiêu NDC.
Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật đánh giá tác động của hệ thống
trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam tập
trung các phương án quản lý Hệ thống giao dịch hạn ngạch phát
thải (ETS); các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon và kết quả giảm phát
thải từ Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Trong phương án quản lý hệ thống giao dịch hạn ngạch tín chỉ carbon trong
nước (ETS), kịch bản đánh giá tác động dựa theo kinh nghiệm quốc tế và
định hướng của Việt Nam, trong đó tập trung 3 lĩnh vực thí điểm là nhiệt điện,
sắt thép và xi măng.
NGỪA NGUY CƠ BÁN QUÁ TÍN CHỈ CARBON, ĐẢM BẢO MỤC TIÊU NDC
Liên quan đến các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon
ra thị trường quốc tế, trong nghiên cứu mới mới đây, các chuyên gia cho biết với
tín chỉ carbon quốc tế, nghiên cứu dựa vào mục tiêu NDC của Việt Nam và nhóm
các biện pháp.
Cụ thể bao gồm 23 biện pháp đóng góp hoàn toàn vào mục tiêu
NDC không điều kiện, có 20 biện pháp đóng góp hoàn toàn vào NDC có điều kiện và
36 biện pháp bao gồm cả mục tiêu NDC có điều kiện và không điều kiện. Ưu tiên tiếp
cận của thị trường quốc tế khi mua tín chỉ carbon theo Điều 6 Thỏa thuận Paris
sẽ hướng tới mua tín chỉ từ các hoạt động đóng góp cho NDC có điều kiện.
Do đó, nhóm nghiên cứu đưa ra 2 phương án khi thực hiện đánh
giá tác động với chuyển giao tín chỉ carbon quốc tế.
Phương án 1: chỉ cho phép chuyển giao tín chỉ từ 20 biện pháp
đóng góp hoàn toàn cho NDC có điều kiện (S20), với tỷ lệ chuyển giao 90% và để
lại 10% dự phòng.
Phân tích phương án này, bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công
ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC), Trưởng Nhóm tư vấn chỉ rõ, theo kinh
nghiệm quốc tế, mặc dù các biện pháp có thể được xác định có tính bổ sung cao
nhưng điều này có thể sẽ thay đổi theo thời gian trong quá trình cập nhật NDC.
Ngoài ra cần phải có một tỷ lệ dự phòng nhất định để đảm bảo đạt được các mục
tiêu NDC không điều kiện quốc gia.
Quản lý giao dịch tín chỉ carbon cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và việc đạt được các mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam.
Phương án 2: kịch bản cho phép 56 biện pháp được giao dịch
tín chỉ carbon quốc tế, trong đó có 20 biện pháp đóng góp hoàn toàn cho
NDC có điều kiện và 36 biện pháp đóng góp cho cả NDC có điều kiện và không điều
kiện.
Theo bà Loan, với phương án này sẽ có rủi ro bán quá mức bởi
nếu cho phép tỷ lệ quá cao, các doanh nghiệp sẽ bán hết tín chỉ và không còn phần
đóng góp cho NDC không điều kiện cũng như phần tín chỉ tham gia thị trường carbon
trong nước. Do đó, với phương án này, nhóm nghiên cứu đưa ra 2 tỷ lệ cho phép
chuyển giao tối đa ở mức 50% và 70%.
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra 3 mức giá carbon giả thiết (47,0
USD, 33,8 USD và 20,5 USD) cho từng nhóm người mua, dựa trên mức giá trung bình
của các thị trường có tiềm năng sẽ mua từ Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore. Đây là các thị trường mà Việt Nam đã ký kết các biên bản ghi nhớ hợp
tác liên quan đến Điều 6 Thỏa thuận Paris.
Ngoài ra, Thụy Sĩ, New Zealand, Thụy Điển cũng là những quốc
gia có tín hiệu nhu cầu mua tín chỉ. Bên cạnh đó, nhu cầu mua tín chỉ carbon từ
các hãng hàng không của Việt Nam cũng như quốc tế để đáp ứng nghĩa vụ cho
chương trình giảm phát thải tính vào bù trừ carbon của hãng hàng không quốc tế
Corsia là khá lớn.
Từ các kịch bản đưa ra cho phép tạo tín chỉ giao dịch trên
thị trường carbon quốc tế, các chuyên gia cho rằng, tỷ lệ giao dịch cao ở mức
70% trong kịch bản 56 biện pháp có thể dẫn đến nguy cơ bán quá và không đạt được
mục tiêu NDC không điều kiện.
Các chuyên gia nhấn mạnh với quản lý giao dịch tín chỉ carbon
cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và việc đạt được các mục tiêu giảm phát thải
của Việt Nam.
LỘ TRÌNH TIẾP CẬN QUẢN LÝ TÍCH HỢP 3 GIAI ĐOẠN
Kết quả mô phỏng cho thấy kịch bản 20 biện pháp cho thấy khả năng
đóng góp hạn chế vào thị trường carbon trong nước cũng như việc đạt được mục
tiêu NDC trong tất cả các trường hợp.
Kịch bản 56 biện pháp cho thấy tiềm năng đóng góp
đáng kể vào mục tiêu NDC. Đặc biệt trong kịch bản giữ lại 50%, giúp đảm bảo mục
tiêu NDC không điều kiện và tạo dư địa cho NDC có điều kiện. Tuy nhiên, điều này
đi kèm đánh đổi về lợi ích kinh tế do chênh lệch giá bán tín chỉ carbon giữa thị
trường trong nước và quốc tế.
Đưa ra các khuyến nghịcho Việt Nam qua kết quả nghiên cứu, bà Loan nhấn mạnh sự tương tác giữa
ETS và thương mại quốc tế cho thấy Việt Nam cần coi đây là một hệ thống thị trường
carbon tích hợp thay vì song song, nhằm tránh rủi ro bán vượt, bảo đảm đủ tín
chỉ cho tuân thủ trong nước và duy trì khả năng đạt được mục tiêu NDC.
Việt Nam sẽ giữ lại 50% tổng số tín chỉ để phục vụ mục tiêu chung.
Để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thị trường carbon trong nước
và tận dụng lợi ích từ giao dịch tín chỉ carbon ra thị trường quốc tế, nghiên cứu
đề xuất thực hiện lộ trình quản lý tích hợp theo 3 giai đoạn.
Giai đoạn (2025–2028): Trong giai đoạn đầu, Việt Nam nên ưu
tiên sự ổn định thị trường và tính khả thi về kinh tế. Doanh nghiệp có thể được
phép bù trừ tối đa 30% nghĩa vụ giảm phát thải bằng tín chỉ carbon. Đối với các
giao dịch quốc tế, Việt Nam sẽ giữ lại 50% tổng số tín chỉ để phục vụ mục tiêu
chung. Tiếp cận này tạo không gian linh hoạt cần thiết để xây dựng niềm tin thị
trường, đồng thời bảo vệ các mục tiêu NDC không điều kiện.
Giai đoạn sau năm 2028: Khi hệ thống đo đạc- báo cáo- thẩm định
và các thể chế thị trường đã hoàn thiện, các quy định sẽ được siết chặt hơn. Giới
hạn bù trừ trong nước sẽ giảm dần xuống còn 20%, và hạn mức phát thải sẽ được
điều chỉnh để phù hợp với các mục tiêu khí hậu tham vọng hơn (NDC có điều kiện).
Hoạt động giao dịch tín chỉ carbon quốc tế vẫn sẽ duy trì tỷ lệ giữ lại ít nhất
50% số tín chỉ, nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa thị trường trong nước và quốc
tế.
Giai đoạn từ năm 2030 trở đi: Thị trường carbon tiến tới
tương thích hoàn toàn với mục tiêu khí hậu tham vọng nhất của Việt Nam (mục
tiêu NDC có điều kiện và JETP). Giới hạn bù trừ sẽ giảm xuống còn 10%, tạo động
lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp giảm phát thải trực tiếp từ hoạt động sản xuất.
Ngoài ra, tỷ lệ tín chỉ giữ lại từ giao dịch quốc tế sẽ giảm
xuống 30%, từ đó nâng cao tham vọng môi trường và bảo đảm đủ tín chỉ để đạt được
các mục tiêu quốc gia. Doanh thu từ chuyển giao tín chỉ sẽ được tái đầu tư một
cách chiến lược vào các ngành khó giảm phát thải khí nhà kính và hỗ trợ quá
trình chuyển dịch công bằng.
Theo bà Loan, “cách tiếp cận tích hợp, siết dần giới hạn bù trừ và điều chỉnh
tỷ lệ giữ lại theo lộ trình sẽ giúp Việt Nam cân bằng giữa khả thi kinh tế ngắn
hạn với mục tiêu môi trường và uy tín quốc tế dài hạn, hướng tới mục tiêu phát
thải ròng bằng “0”.
Sẽ có quy định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải và tín chỉ carbon
09:10, 21/08/2025
Doanh nghiệp sẵn sàng tham gia thị trường tín chỉ carbon
15:16, 27/07/2025
Rất nhiều dự án thành công trong giảm phát thải và triển khai tín chỉ carbon
Xu hướng tiêu dùng xanh mở ra cánh cửa lớn cho nhà sản xuất
Để thúc đẩy tiêu dùng xanh và biến nó thành chuẩn mực lâu dài, cần có sự chung tay từ cả doanh nghiệp, Chính phủ và người tiêu dùng để vượt qua rào cản về sản xuất, giá cả và nhận thức. Doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ và chiến lược sản xuất, Chính phủ cần ban hành chính sách hỗ trợ đồng bộ, còn người tiêu dùng cần nâng cao nhận thức và thay đổi thói quen tiêu dùng để tạo ra một thị trường xanh bền vững...
ESG – “tấm hộ chiếu” cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập bền vững
Hơn 94% doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức về ESG (môi trường, xã hội, quản trị), nhưng mức độ sẵn sàng áp dụng vào hoạt động vẫn còn thấp...
Doanh nghiệp Việt “chạy đua” thích ứng chuẩn xanh và xuất xứ
Bản đồ thương mại toàn cầu đang đảo chiều với tốc độ chưa từng có, với biến số từ chính sách thuế của Mỹ đến rào cản xanh ở châu Âu. Luật chơi mới buộc doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển từ “chạy số lượng” sang “chuẩn hóa – minh bạch – xanh hóa” để tồn tại trong “cuộc đua” này...
Vượt “rào cản” chuyển đổi xanh: Doanh nghiệp thay đổi tư duy, Nhà nước khuyến khích bằng chính sách
Chuyển đổi xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng...
Kiểm soát chặt nguồn thải, rà soát, thanh kiểm tra đột xuất các cơ sở có nguồn thải khí lớn
Trước tình trạng ô nhiễm không khí, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương siết chặt kiểm soát nguồn phát sinh khí thải, quan trắc và công bố AQI, tập trung xử lý ô nhiễm tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh; đẩy nhanh xây dựng và thực hiện các chương trình “vùng phát thải thấp” ở đô thị lớn...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: