
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Năm, 25/12/2025
Tùng Dương
26/09/2025, 07:05
Trên cơ sở nghiên cứu, các chuyên gia đề xuất lộ trình giai đoạn từ nay đến 2030, hoạt động thương mại giao dịch tín chỉ carbon quốc tế của Việt Nam sẽ duy trì tỷ lệ giữ lại ít nhất 50% số tín chỉ. Theo các chuyên gia, quản lý giao dịch tín chỉ carbon cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và việc đạt được các mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam...
Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam tập trung các phương án quản lý Hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải (ETS); các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon và kết quả giảm phát thải từ Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Trong phương án quản lý hệ thống giao dịch hạn ngạch tín chỉ carbon trong nước (ETS), kịch bản đánh giá tác động dựa theo kinh nghiệm quốc tế và định hướng của Việt Nam, trong đó tập trung 3 lĩnh vực thí điểm là nhiệt điện, sắt thép và xi măng.
NGỪA NGUY CƠ BÁN QUÁ TÍN CHỈ CARBON, ĐẢM BẢO MỤC TIÊU NDC
Liên quan đến các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon ra thị trường quốc tế, trong nghiên cứu mới mới đây, các chuyên gia cho biết với tín chỉ carbon quốc tế, nghiên cứu dựa vào mục tiêu NDC của Việt Nam và nhóm các biện pháp.
Cụ thể bao gồm 23 biện pháp đóng góp hoàn toàn vào mục tiêu NDC không điều kiện, có 20 biện pháp đóng góp hoàn toàn vào NDC có điều kiện và 36 biện pháp bao gồm cả mục tiêu NDC có điều kiện và không điều kiện. Ưu tiên tiếp cận của thị trường quốc tế khi mua tín chỉ carbon theo Điều 6 Thỏa thuận Paris sẽ hướng tới mua tín chỉ từ các hoạt động đóng góp cho NDC có điều kiện.
Do đó, nhóm nghiên cứu đưa ra 2 phương án khi thực hiện đánh giá tác động với chuyển giao tín chỉ carbon quốc tế.
Phương án 1: chỉ cho phép chuyển giao tín chỉ từ 20 biện pháp đóng góp hoàn toàn cho NDC có điều kiện (S20), với tỷ lệ chuyển giao 90% và để lại 10% dự phòng.
Phân tích phương án này, bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC), Trưởng Nhóm tư vấn chỉ rõ, theo kinh nghiệm quốc tế, mặc dù các biện pháp có thể được xác định có tính bổ sung cao nhưng điều này có thể sẽ thay đổi theo thời gian trong quá trình cập nhật NDC. Ngoài ra cần phải có một tỷ lệ dự phòng nhất định để đảm bảo đạt được các mục tiêu NDC không điều kiện quốc gia.
Phương án 2: kịch bản cho phép 56 biện pháp được giao dịch tín chỉ carbon quốc tế, trong đó có 20 biện pháp đóng góp hoàn toàn cho NDC có điều kiện và 36 biện pháp đóng góp cho cả NDC có điều kiện và không điều kiện.
Theo bà Loan, với phương án này sẽ có rủi ro bán quá mức bởi nếu cho phép tỷ lệ quá cao, các doanh nghiệp sẽ bán hết tín chỉ và không còn phần đóng góp cho NDC không điều kiện cũng như phần tín chỉ tham gia thị trường carbon trong nước. Do đó, với phương án này, nhóm nghiên cứu đưa ra 2 tỷ lệ cho phép chuyển giao tối đa ở mức 50% và 70%.
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra 3 mức giá carbon giả thiết (47,0 USD, 33,8 USD và 20,5 USD) cho từng nhóm người mua, dựa trên mức giá trung bình của các thị trường có tiềm năng sẽ mua từ Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Đây là các thị trường mà Việt Nam đã ký kết các biên bản ghi nhớ hợp tác liên quan đến Điều 6 Thỏa thuận Paris.
Ngoài ra, Thụy Sĩ, New Zealand, Thụy Điển cũng là những quốc gia có tín hiệu nhu cầu mua tín chỉ. Bên cạnh đó, nhu cầu mua tín chỉ carbon từ các hãng hàng không của Việt Nam cũng như quốc tế để đáp ứng nghĩa vụ cho chương trình giảm phát thải tính vào bù trừ carbon của hãng hàng không quốc tế Corsia là khá lớn.
Từ các kịch bản đưa ra cho phép tạo tín chỉ giao dịch trên thị trường carbon quốc tế, các chuyên gia cho rằng, tỷ lệ giao dịch cao ở mức 70% trong kịch bản 56 biện pháp có thể dẫn đến nguy cơ bán quá và không đạt được mục tiêu NDC không điều kiện.
Các chuyên gia nhấn mạnh với quản lý giao dịch tín chỉ carbon cần cân nhắc giữa lợi ích kinh tế và việc đạt được các mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam.
LỘ TRÌNH TIẾP CẬN QUẢN LÝ TÍCH HỢP 3 GIAI ĐOẠN
Kết quả mô phỏng cho thấy kịch bản 20 biện pháp cho thấy khả năng đóng góp hạn chế vào thị trường carbon trong nước cũng như việc đạt được mục tiêu NDC trong tất cả các trường hợp.
Kịch bản 56 biện pháp cho thấy tiềm năng đóng góp đáng kể vào mục tiêu NDC. Đặc biệt trong kịch bản giữ lại 50%, giúp đảm bảo mục tiêu NDC không điều kiện và tạo dư địa cho NDC có điều kiện. Tuy nhiên, điều này đi kèm đánh đổi về lợi ích kinh tế do chênh lệch giá bán tín chỉ carbon giữa thị trường trong nước và quốc tế.
Đưa ra các khuyến nghị cho Việt Nam qua kết quả nghiên cứu, bà Loan nhấn mạnh sự tương tác giữa ETS và thương mại quốc tế cho thấy Việt Nam cần coi đây là một hệ thống thị trường carbon tích hợp thay vì song song, nhằm tránh rủi ro bán vượt, bảo đảm đủ tín chỉ cho tuân thủ trong nước và duy trì khả năng đạt được mục tiêu NDC.
Để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thị trường carbon trong nước và tận dụng lợi ích từ giao dịch tín chỉ carbon ra thị trường quốc tế, nghiên cứu đề xuất thực hiện lộ trình quản lý tích hợp theo 3 giai đoạn.
Giai đoạn (2025–2028): Trong giai đoạn đầu, Việt Nam nên ưu tiên sự ổn định thị trường và tính khả thi về kinh tế. Doanh nghiệp có thể được phép bù trừ tối đa 30% nghĩa vụ giảm phát thải bằng tín chỉ carbon. Đối với các giao dịch quốc tế, Việt Nam sẽ giữ lại 50% tổng số tín chỉ để phục vụ mục tiêu chung. Tiếp cận này tạo không gian linh hoạt cần thiết để xây dựng niềm tin thị trường, đồng thời bảo vệ các mục tiêu NDC không điều kiện.
Giai đoạn sau năm 2028: Khi hệ thống đo đạc- báo cáo- thẩm định và các thể chế thị trường đã hoàn thiện, các quy định sẽ được siết chặt hơn. Giới hạn bù trừ trong nước sẽ giảm dần xuống còn 20%, và hạn mức phát thải sẽ được điều chỉnh để phù hợp với các mục tiêu khí hậu tham vọng hơn (NDC có điều kiện). Hoạt động giao dịch tín chỉ carbon quốc tế vẫn sẽ duy trì tỷ lệ giữ lại ít nhất 50% số tín chỉ, nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa thị trường trong nước và quốc tế.
Giai đoạn từ năm 2030 trở đi: Thị trường carbon tiến tới tương thích hoàn toàn với mục tiêu khí hậu tham vọng nhất của Việt Nam (mục tiêu NDC có điều kiện và JETP). Giới hạn bù trừ sẽ giảm xuống còn 10%, tạo động lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp giảm phát thải trực tiếp từ hoạt động sản xuất.
Ngoài ra, tỷ lệ tín chỉ giữ lại từ giao dịch quốc tế sẽ giảm xuống 30%, từ đó nâng cao tham vọng môi trường và bảo đảm đủ tín chỉ để đạt được các mục tiêu quốc gia. Doanh thu từ chuyển giao tín chỉ sẽ được tái đầu tư một cách chiến lược vào các ngành khó giảm phát thải khí nhà kính và hỗ trợ quá trình chuyển dịch công bằng.
Theo bà Loan, “cách tiếp cận tích hợp, siết dần giới hạn bù trừ và điều chỉnh tỷ lệ giữ lại theo lộ trình sẽ giúp Việt Nam cân bằng giữa khả thi kinh tế ngắn hạn với mục tiêu môi trường và uy tín quốc tế dài hạn, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.
Việc thí điểm phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính là bước đệm để hoàn thiện cơ chế quản lý trước khi áp dụng bắt buộc trên phạm vi toàn quốc. Lộ trình dự kiến từ năm 2028, việc quản lý hạn ngạch phát thải sẽ được triển khai chính thức và bắt buộc trên phạm vi toàn quốc với tất cả các lĩnh vực, doanh nghiệp...
Thành phố thông minh, phát thải thấp và chống chịu với rủi ro khi hậu sẽ góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững đất nước, tăng trưởng xanh và Net Zero vào năm 2050...
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao tân Cục trưởng tập trung rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nhằm khắc phục kịp thời những bất cập, chồng chéo, khoảng trống pháp lý phát sinh. Chỉ đạo triển khai các giải pháp kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ưu tiên kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị..
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu phát triển mới, đòi hỏi sự bứt phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với phát triển bền vững. ESG không còn là lựa chọn mà đã trở thành “tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp hội nhập, thu hút vốn và nâng cao năng lực cạnh tranh…
Sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI) đang kéo theo những áp lực môi trường ngày càng rõ nét. Nghiên cứu mới cho thấy, trong năm 2025, các hệ thống AI vận hành tại trung tâm dữ liệu có thể phát thải lượng carbon ngang một thành phố lớn hoặc một quốc gia châu Âu nhỏ. Đồng thời, mức tiêu thụ nước của AI cũng được dự báo tăng mạnh, đặt ra thách thức mới đối với mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: