“Đến lúc Mỹ bỏ lệnh cấm vận vũ khí cho Việt Nam”
Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sẽ giúp Việt Nam tăng cường năng lực tự vệ
Tờ Wall Street Journal của Mỹ hôm 15/7 đăng bài viết của hai chuyên gia Richard Fontaine và Patrick M. Cronin cho rằng, đã tới lúc Mỹ cần dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhằm giúp Việt Nam tự vệ.
Theo các tác giả, khi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu mùa hè này, Trung Quốc một lần nữa đã chế nhạo những quy định luật pháp đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi và cho thấy mưu đồ mở rộng phạm vi hoạt động xa hơn trên biển Đông. Đứng trước hành vi này, Washington và các đối tác châu Á đang phải vật lộn xác định cách phản ứng thích hợp.
Các tác giả cho rằng, Mỹ có lợi ích trong việc ngăn chặn những hành động cưỡng ép nhằm thực hiện yêu sách chủ quyền vô lý của Trung Quốc ở khu vực Thái Bình Dương. Mỹ cũng có lợi ích trong việc thúc đẩy một hệ thống khu vực mở, dựa trên luật pháp, vốn đã giúp các nền kinh tế châu Á trở nên phồn thịnh.
Tuy nhiên, trước việc Trung Quốc tăng cường bảo vệ giàn khoan bằng hàng đoàn tàu quân sự, hải cảnh và tàu cá, mối nguy hiểm của sự leo thang đã trở nên rõ ràng. Không chỉ như vậy, Trung Quốc còn liên tục dở thủ đoạn đâm vào các tàu Việt Nam và kết quả là một tàu cá của Việt Nam đã bị chìm.
Những hành động cưỡng ép trên của Trung Quốc đã đặt ra câu hỏi Mỹ nên phản ứng như thế nào?
Theo hai ông Richard Fontaine và Patrick M. Cronin, câu trả lời nằm ở quan hệ với Việt Nam. Năng lực của Việt Nam trong việc tự bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đang bị đe dọa bởi sức mạnh vượt trội của Bắc Kinh.
Trong bối cảnh Washington và Hà Nội mới chỉ có những bước đi khiêm tốn trong việc bình thường hóa quan hệ quân sự thông qua các cuộc tập luyện chung và đối thoại chiến lược, Mỹ nên có thêm những bước đi khác nhằm thúc đẩy năng lực tự vệ của Việt Nam, các tác giả bài báo nhận định.
Và trong đó, điều quan trọng nhất là, Mỹ nên dỡ bỏ lệnh cấm bán các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam. Phạm vi và chủng loại hỗ trợ quân sự trực tiếp của Mỹ cho Việt Nam có thể giới hạn ở những loại vũ khí phòng thủ hữu ích nhất trong việc ứng phó với sự cưỡng ép từ bên ngoài, chẳng hạn như các hệ thống cảnh báo hàng hải, tàu hộ vệ và các tàu thuyền khác, cùng với vũ khí chống hạm.
Mới đây, trong cuộc điều trần trước Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ, ông Ted Osius, người đang được đề cử đảm nhận chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam thay ông David Shear, đã đánh tín hiệu cho thấy chính quyền Obama sẵn sàng cân nhắc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Trả lời Thượng nghị sĩ John McCain, ông Ted Osius nhận định đây là lúc Mỹ nên cân nhắc hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam. Ông nhắc đến tình huống chiến lược Việt Nam đang đối mặt với Trung Quốc và thái độ tích cực của Việt Nam khi tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Ông Ted Osius cho rằng, thời điểm tốt nhất để hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam là trong năm nay.
Hiện dự thảo về việc bỏ cấm vận vũ khí sát thương này đang được lưu hành ở Quốc hội Mỹ. Chính quyền Obama có thể tự dỡ bỏ lệnh cấm này, kể từ khi lệnh cấm hiện tại được gắn với một sắc lệnh và không điều chỉnh theo luật pháp Mỹ. Tuy nhiên, một sự xác nhận mạnh mẽ từ Quốc hội Mỹ cùng với hành động thực tế của cơ quan hành pháp sẽ là minh chứng rõ ràng và có sức nặng nhất cho hành động này.
Các chuyên gia Richard Fontaine và Patrick M. Cronin cho rằng, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sẽ giúp tăng cường năng lực ngăn chặn của Việt Nam khi nước này đang phải chịu sức ép gia tăng từ nước láng giềng phương Bắc. Đây cũng là sự tiếp nối một cách tự nhiên quyết định hồi năm 2007 của chính quyền Tổng thống George Bush về việc cho phép xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng không gây sát thương cho Việt Nam.
Không chỉ có vậy, việc này cũng sẽ củng cố các yếu tố khác trong quan hệ song phương giữa Việt Nam với Mỹ, bao gồm những chuyến thăm hải cảng Việt Nam của hải quân Mỹ, cũng như sự phối hợp ngoại giao với các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông như Malaysia và Philippines.
Điều đó sẽ không chỉ thể hiện một bước tiếp theo lôgic trong lộ trình dài hướng tới bình thường hóa hoàn toàn các mối quan hệ, mà còn có thể phục vụ như một chất xúc tác tiềm tàng cho việc mở cửa hơn nữa của Việt Nam.
Những bước tiến mà hai nước đạt được kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay là rất to lớn. Năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng. Hai nhà lãnh đạo sau đó đã ra tuyên bố chung có nội dung về việc quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện, nhằm góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi nước, trong khu vực và trên toàn thế giới.
Quan hệ đối tác toàn diện mới tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.
Không chỉ có thế, Việt Nam còn tích cực gia nhập nhóm các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việt Nam cũng ủng hộ một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp chủ quyền ở các vùng biển Đông và biển Hoa Đông, đồng thời xây dựng mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với Mỹ.
Trong khi đó, những hành động mới nhất của Trung Quốc ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam sẽ rất khó có thể nói là lần cuối cùng. Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục triển khai các giàn khoan dầu, tàu cá, lực lượng hải quân và không quân. Nước này có thể sẽ tiếp tục khai thác tài nguyên, áp đặt luật riêng, yêu sách các vùng đất và biến những đòi hỏi chủ quyền trâng tráo của họ đối với biển Đông trở thành sự thực.
Mỹ cần có cách tiếp cận ngoại giao cơ bắp hơn đối với hành vi xấu xa này. Và một phần trong cách tiếp cận đó là phải hợp tác chặt chẽ hơn với Việt Nam, một trong số ít những quốc gia tuyên bố chủ quyền ở biển Đông có thái độ kiên quyết trong việc bảo vệ lợi ích của mình.
40 năm sau cuộc chiến tranh Việt Nam, hai nước đã trở thành đối tác mới trong một môi trường chiến lược đang biến đổi do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cả Mỹ và Việt Nam đều đang tìm kiếm những mối quan hệ hiệu quả với Trung Quốc cũng như kiềm chế những hành vi vượt quá giới hạn của Bắc Kinh, đồng thời cũng thừa nhận rằng năng lực tự vệ là sự sống còn trong việc đương đầu với những hành động quyết đoán của Trung Quốc.
Và hiện là lúc Mỹ cần giúp Việt Nam tự vệ.
* Ông Richard Fontaine là Chủ tịch Trung tâm An ninh mới của Mỹ, còn ông Patrick M. Cronin là chuyên gia tư vấn cao cấp kiêm Giám đốc cao cấp của Chương trình An ninh châu Á - Thái Bình Dương.
Theo các tác giả, khi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu mùa hè này, Trung Quốc một lần nữa đã chế nhạo những quy định luật pháp đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận rộng rãi và cho thấy mưu đồ mở rộng phạm vi hoạt động xa hơn trên biển Đông. Đứng trước hành vi này, Washington và các đối tác châu Á đang phải vật lộn xác định cách phản ứng thích hợp.
Các tác giả cho rằng, Mỹ có lợi ích trong việc ngăn chặn những hành động cưỡng ép nhằm thực hiện yêu sách chủ quyền vô lý của Trung Quốc ở khu vực Thái Bình Dương. Mỹ cũng có lợi ích trong việc thúc đẩy một hệ thống khu vực mở, dựa trên luật pháp, vốn đã giúp các nền kinh tế châu Á trở nên phồn thịnh.
Tuy nhiên, trước việc Trung Quốc tăng cường bảo vệ giàn khoan bằng hàng đoàn tàu quân sự, hải cảnh và tàu cá, mối nguy hiểm của sự leo thang đã trở nên rõ ràng. Không chỉ như vậy, Trung Quốc còn liên tục dở thủ đoạn đâm vào các tàu Việt Nam và kết quả là một tàu cá của Việt Nam đã bị chìm.
Những hành động cưỡng ép trên của Trung Quốc đã đặt ra câu hỏi Mỹ nên phản ứng như thế nào?
Theo hai ông Richard Fontaine và Patrick M. Cronin, câu trả lời nằm ở quan hệ với Việt Nam. Năng lực của Việt Nam trong việc tự bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đang bị đe dọa bởi sức mạnh vượt trội của Bắc Kinh.
Trong bối cảnh Washington và Hà Nội mới chỉ có những bước đi khiêm tốn trong việc bình thường hóa quan hệ quân sự thông qua các cuộc tập luyện chung và đối thoại chiến lược, Mỹ nên có thêm những bước đi khác nhằm thúc đẩy năng lực tự vệ của Việt Nam, các tác giả bài báo nhận định.
Và trong đó, điều quan trọng nhất là, Mỹ nên dỡ bỏ lệnh cấm bán các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam. Phạm vi và chủng loại hỗ trợ quân sự trực tiếp của Mỹ cho Việt Nam có thể giới hạn ở những loại vũ khí phòng thủ hữu ích nhất trong việc ứng phó với sự cưỡng ép từ bên ngoài, chẳng hạn như các hệ thống cảnh báo hàng hải, tàu hộ vệ và các tàu thuyền khác, cùng với vũ khí chống hạm.
Mới đây, trong cuộc điều trần trước Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ, ông Ted Osius, người đang được đề cử đảm nhận chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam thay ông David Shear, đã đánh tín hiệu cho thấy chính quyền Obama sẵn sàng cân nhắc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Trả lời Thượng nghị sĩ John McCain, ông Ted Osius nhận định đây là lúc Mỹ nên cân nhắc hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam. Ông nhắc đến tình huống chiến lược Việt Nam đang đối mặt với Trung Quốc và thái độ tích cực của Việt Nam khi tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Ông Ted Osius cho rằng, thời điểm tốt nhất để hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam là trong năm nay.
Hiện dự thảo về việc bỏ cấm vận vũ khí sát thương này đang được lưu hành ở Quốc hội Mỹ. Chính quyền Obama có thể tự dỡ bỏ lệnh cấm này, kể từ khi lệnh cấm hiện tại được gắn với một sắc lệnh và không điều chỉnh theo luật pháp Mỹ. Tuy nhiên, một sự xác nhận mạnh mẽ từ Quốc hội Mỹ cùng với hành động thực tế của cơ quan hành pháp sẽ là minh chứng rõ ràng và có sức nặng nhất cho hành động này.
Các chuyên gia Richard Fontaine và Patrick M. Cronin cho rằng, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sẽ giúp tăng cường năng lực ngăn chặn của Việt Nam khi nước này đang phải chịu sức ép gia tăng từ nước láng giềng phương Bắc. Đây cũng là sự tiếp nối một cách tự nhiên quyết định hồi năm 2007 của chính quyền Tổng thống George Bush về việc cho phép xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng không gây sát thương cho Việt Nam.
Không chỉ có vậy, việc này cũng sẽ củng cố các yếu tố khác trong quan hệ song phương giữa Việt Nam với Mỹ, bao gồm những chuyến thăm hải cảng Việt Nam của hải quân Mỹ, cũng như sự phối hợp ngoại giao với các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông như Malaysia và Philippines.
Điều đó sẽ không chỉ thể hiện một bước tiếp theo lôgic trong lộ trình dài hướng tới bình thường hóa hoàn toàn các mối quan hệ, mà còn có thể phục vụ như một chất xúc tác tiềm tàng cho việc mở cửa hơn nữa của Việt Nam.
Những bước tiến mà hai nước đạt được kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay là rất to lớn. Năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng. Hai nhà lãnh đạo sau đó đã ra tuyên bố chung có nội dung về việc quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện, nhằm góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi nước, trong khu vực và trên toàn thế giới.
Quan hệ đối tác toàn diện mới tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.
Không chỉ có thế, Việt Nam còn tích cực gia nhập nhóm các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việt Nam cũng ủng hộ một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp chủ quyền ở các vùng biển Đông và biển Hoa Đông, đồng thời xây dựng mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với Mỹ.
Trong khi đó, những hành động mới nhất của Trung Quốc ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam sẽ rất khó có thể nói là lần cuối cùng. Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục triển khai các giàn khoan dầu, tàu cá, lực lượng hải quân và không quân. Nước này có thể sẽ tiếp tục khai thác tài nguyên, áp đặt luật riêng, yêu sách các vùng đất và biến những đòi hỏi chủ quyền trâng tráo của họ đối với biển Đông trở thành sự thực.
Mỹ cần có cách tiếp cận ngoại giao cơ bắp hơn đối với hành vi xấu xa này. Và một phần trong cách tiếp cận đó là phải hợp tác chặt chẽ hơn với Việt Nam, một trong số ít những quốc gia tuyên bố chủ quyền ở biển Đông có thái độ kiên quyết trong việc bảo vệ lợi ích của mình.
40 năm sau cuộc chiến tranh Việt Nam, hai nước đã trở thành đối tác mới trong một môi trường chiến lược đang biến đổi do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cả Mỹ và Việt Nam đều đang tìm kiếm những mối quan hệ hiệu quả với Trung Quốc cũng như kiềm chế những hành vi vượt quá giới hạn của Bắc Kinh, đồng thời cũng thừa nhận rằng năng lực tự vệ là sự sống còn trong việc đương đầu với những hành động quyết đoán của Trung Quốc.
Và hiện là lúc Mỹ cần giúp Việt Nam tự vệ.
* Ông Richard Fontaine là Chủ tịch Trung tâm An ninh mới của Mỹ, còn ông Patrick M. Cronin là chuyên gia tư vấn cao cấp kiêm Giám đốc cao cấp của Chương trình An ninh châu Á - Thái Bình Dương.