Đi tìm bức tranh tổng thể
Bài viết phân tích bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, dựa trên các yếu tố căn bản
Với người dân bình thường, câu hỏi đặt ra là họ không “chơi” chứng khoán, không đầu cơ địa ốc, không nhập ôtô đắt tiền, tại sao họ phải gánh chịu khó khăn hiện nay?
Khi các phân tích kinh tế của các tổ chức tài chính nước ngoài cũng đều nhận định tình hình trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, là thân chủ của họ, liệu có ai phân tích triển vọng kinh tế vì lợi ích chung của đất nước, của những người dân bình thường, trong tay không có đồng Đô la hay tờ cổ phiếu nào?
Có lẽ khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ tiếp nhận các thông tin trái chiều hiện đang tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau. Trong khi nội dung chính của các báo cáo từ nước ngoài tập trung vào chuyện tài chính, điều chúng ta cần hiện nay là một bức tranh tổng thể của nền kinh tế, dựa vào các yếu tố căn bản hơn.
Điều đáng nói là phân tích của các chuyên gia nước ngoài, cả ở các định chế quốc tế và các hãng tư vấn đầu tư đã có sự đảo chiều, chừng mực hơn, sâu hơn, vì dựa vào nhiều thông tin hơn trong tuần trước so với thời gian trước đó.
Về nhập siêu, sau khi đạt mức kỷ lục 14,4 tỉ Đô la sau năm tháng đầu năm 2008, tình trạng nhập siêu đang ở xu hướng giảm do nhiều yếu tố khác nhau. Nhờ cổ phiếu lên giá mạnh trong năm ngoái, nhiều người đã chi tiêu mạnh tay, thể hiện qua các con số xe hơi, hàng tiêu dùng đắt tiền nhập khẩu...
Nay tiền bạc khan hiếm, chắc chắn người ta sẽ không còn ồ ạt nhập hàng như những tháng đầu năm. Thị trường địa ốc trầm lắng cũng sẽ giảm cầu vật liệu xây dựng. Đã có những tin tức rải rác cho thấy điều đó, như ôtô nhập về bán chậm, thép nhập về nay lại chuẩn bị xuất ngược trở lại. Ngay cả số lượng ô tô lắp ráp trong nước bán trong tháng 5 giảm gần 1.800 chiếc so với tháng trước, sẽ làm giảm linh kiện nhập khẩu.
Với tỷ giá đang biến động theo hướng Đô la Mỹ lên giá so với tiền đồng, nhà nhập khẩu sẽ khó mua Đô la hơn và hàng nhập sẽ đắt hơn nên xu hướng chung là nhập khẩu sẽ giảm. Vấn đề ở chỗ làm sao để khuyến khích xuất khẩu mạnh hơn nữa để giảm nhập siêu khi nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng đang phụ thuộc đầu vào là nguyên liệu nhập khẩu.
Sự linh hoạt trong tỷ giá chính là cách giúp nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam ở nước ngoài - một sự linh hoạt định giá tiền đồng dựa vào cả rổ tiền các ngoại tệ là bạn hàng của Việt Nam chứ không chỉ đồng Đô la Mỹ. Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính công nếu thực thi nghiêm chỉnh và kiên quyết cũng sẽ giúp giảm áp lực nhập siêu trong những tháng cuối năm.
Thực tế, nhập siêu đang giảm: tháng 3 là 3,3 tỉ Đô la, tháng 4 còn 2,8 tỉ Đô la và tháng 5/2008 giảm tiếp còn 2,6 tỉ Đô la (nguồn: Barclays Capital). Mức giảm này cần phải đẩy mạnh hơn nữa để tạo ra tác động tích cực lên các chỉ tiêu khác, nhất là lên cân đối cán cân thanh toán.
Về lạm phát, thật khó lòng cho Việt Nam khi đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá xăng dầu và giá lương thực tăng cao ở khắp thế giới, cũng tạo ra nỗi lo lạm phát cho nhiều nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, như nhiều người đã từng nói trước đây, lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều do chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm trước. Nay khi tín dụng bị thắt chặt, cung tiền tăng không đáng kể thì lạm phát sẽ có xu hướng dịu xuống trong những tháng tới khi chính sách này bắt đầu có tác dụng.
Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy cung tiền đã giảm 10% so với cùng kỳ, phù hợp với mức tăng nhập khẩu đang chậm lại tương ứng. Theo báo cáo “Taking Stock” của WB tại hội nghị giữa kỳ các nhà tài trợ, nếu loại trừ yếu tố lương thực, tốc độ tăng giá đang giảm dần từ tháng 3.
Điều cần lưu ý là kỳ vọng về lạm phát của người dân đóng vai trò quan trọng quyết định xu hướng giá cả. Vì thế, phải gắn chính sách lãi suất với việc kiềm chế lạm phát - lãi suất phải được nâng mức thực dương lên để người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng, từ đó chính sách tiền tệ mới có tác dụng nhanh.
Về các chỉ số khác, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, dường như Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội giá lương thực, thực phẩm trên thế giới đang tăng cao nên người nông dân chưa hưởng lợi bao nhiêu, lại đang chịu khó khăn do doanh nghiệp không có vốn mua hàng của họ để xuất khẩu.
Giá trị sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng của năm ngoái (16,4% cho năm tháng đầu năm), trừ ngành xây dựng. Điểm đáng lưu ý là WB trong tài liệu nói trên nhấn mạnh cho dù Việt Nam cố tình giảm tốc độ tăng trưởng GDP năm nay còn 7%, với quán tính tăng trưởng mạnh đến 8,4% trong năm ngoái, GDP năm 2008 vẫn sẽ tăng cao hơn con số Việt Nam mong muốn.
“Cho dù tốc độ phát triển ngành xây dựng giảm còn 0% trong những tháng còn lại trong năm và các ngành khác duy trì tốc độ tăng của quí 1, tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 7,5% trong năm 2008”, báo cáo viết. Nhấn mạnh điều này là để nói, cho dù cuộc chiến kiềm chế lạm phát phải trả giá, về ngắn hạn, cái giá đối với tăng trưởng cũng không đến nỗi quá cao và Chính phủ cần phải cương quyết nói không với áp lực duy trì tăng trưởng cao từ các ngành và nhất là các địa phương.
Vì tâm lý đang đóng vai trò quan trọng trong ổn định thị trường, chúng ta cũng nên điểm lại một số yếu tố tài chính, tiền tệ để có cái nhìn khách quan đến mức có thể được.
Về cán cân thanh toán, theo thông tin từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với ông David Fernandez, kinh tế trưởng của JP Morgan Chase, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam năm tháng đầu năm 2008 đang thặng dư 1 tỉ Đô la và cả năm 2008 sẽ thặng dư 2-3 tỉ Đô la. Nên nhớ chỉ tính riêng giải ngân các dự án FDI hiện nay cũng đã trên 1 tỉ Đô la mỗi tháng.
Báo cáo của WB cũng cho thấy những con số tương tự (cho dù thâm hụt thương mại được ước tính quá thấp): thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008 ước tính khoảng 11,3 tỉ Đô la sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn chừng 14,8 tỉ, để cán cân thanh toán sẽ thặng dư dưới dạng dự trữ ngoại tệ khoảng 3,4 tỉ Đô la. Đây chính là những con số mà thị trường đang cần để bác bỏ những đồn đoán về khủng khoảng cán cân thanh toán của Việt Nam (xem bảng dưới bài).
Tuy nhiên, ở góc độ này, thị trường đang cần sự điều hành linh hoạt về tỷ giá để góp phần vào việc giảm nhập siêu, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, nâng thu nhập cho công nhân khối FDI mà mức lương tối thiểu đang được tính theo tiền Đô la và tước bỏ những vũ khí đầu cơ của giới tài chính nước ngoài. Tỷ lệ lạm phát cũng phải được tính đến khi điều hành tỷ giá, không chỉ với Đô la Mỹ mà còn với các ngoại tệ khác nữa.
Về tác động tới người dân, các nhóm lợi ích liên quan đến tài chính có tiếng nói khá mạnh, dù công khai hay không công khai trong khi các nhóm lợi ích đại diện cho người dân nghèo, nhất là nông dân, hầu như không tồn tại.
Vì thế, thực thi chính sách cần lưu ý để không bị tác động trước mắt hay áp lực của nhà đầu tư nước ngoài. Tuyên bố không phá giá tiền đồng đột ngột là theo hướng đó vì phá giá tiền đồng sẽ tác động mạnh lên lạm phát, làm chính sách thắt chặt tiền tệ khó thực thi hơn và nạn nhân chịu tác động lớn nhất vẫn là người nghèo sống bằng thu nhập tính từng tháng hay từng vụ mùa.
Đến 73% dân số đang sinh sống ở nông thôn. Nếu chính sách quay về với cơ bản để nâng cao sức mua của nông dân, chính thị trường trong nước sẽ là chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cuối cùng, về dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài chỉ nắm khoảng 25% cổ phần của các công ty niêm yết, cả thị trường chính thức và thị trường OTC. Như vậy tổng cộng dòng vốn gián tiếp khoảng 7-8 tỉ Đô la và đa số là loại vốn của các quỹ đóng, không thể rút đi được. Chỉ còn khoảng 2,5 tỉ Đô la vốn nóng cộng với khoảng 5 tỉ Đô la trái phiếu mà người nước ngoài đang nắm giữ.
Khi đưa ra các con số trên, Dragon Capital nhận xét: “Dự trữ ngoại tệ bằng 360% các món nợ nóng nước ngoài”. Các loại thông tin về tỷ giá tiền đồng/Đô la Mỹ dạng NDF tăng cao không liên quan gì đến tỷ giá thực vì chúng chỉ là dạng hợp đồng triển kỳ, mang tính cá cược, đến hạn không thanh toán mà chỉ chung chi phần chênh lệch thiệt-hơn. Hàng loạt thông tin như thế cần giải thích cặn kẽ với người dân bởi biến động trên thị trường chứng khoán, ngoại hối chủ yếu do tâm lý nhà đầu tư trong nước.
Điều quan trọng nhất là một khi chúng ta đã xác định nguyên nhân của tình hình hiện nay là do chính sách tiền tệ, tài khóa và đầu tư của các tập đoàn nhà nước, cần nhất quán và kiên định với các giải pháp đưa ra.
Cũng cần lưu ý làm sao để giảm tác động của các hoạt động tài chính lên hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế. Hai bên có mối quan hệ mật thiết nhưng dù sao ở Việt Nam, hoạt động tài chính chỉ mới nổi lên một hai năm gần đây. Giải tỏa vấn đề tâm lý chính là ở chỗ phân định đâu là ưu tiên cần làm với hai lĩnh vực này.
Khi các phân tích kinh tế của các tổ chức tài chính nước ngoài cũng đều nhận định tình hình trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, là thân chủ của họ, liệu có ai phân tích triển vọng kinh tế vì lợi ích chung của đất nước, của những người dân bình thường, trong tay không có đồng Đô la hay tờ cổ phiếu nào?
Có lẽ khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ tiếp nhận các thông tin trái chiều hiện đang tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau. Trong khi nội dung chính của các báo cáo từ nước ngoài tập trung vào chuyện tài chính, điều chúng ta cần hiện nay là một bức tranh tổng thể của nền kinh tế, dựa vào các yếu tố căn bản hơn.
Điều đáng nói là phân tích của các chuyên gia nước ngoài, cả ở các định chế quốc tế và các hãng tư vấn đầu tư đã có sự đảo chiều, chừng mực hơn, sâu hơn, vì dựa vào nhiều thông tin hơn trong tuần trước so với thời gian trước đó.
Về nhập siêu, sau khi đạt mức kỷ lục 14,4 tỉ Đô la sau năm tháng đầu năm 2008, tình trạng nhập siêu đang ở xu hướng giảm do nhiều yếu tố khác nhau. Nhờ cổ phiếu lên giá mạnh trong năm ngoái, nhiều người đã chi tiêu mạnh tay, thể hiện qua các con số xe hơi, hàng tiêu dùng đắt tiền nhập khẩu...
Nay tiền bạc khan hiếm, chắc chắn người ta sẽ không còn ồ ạt nhập hàng như những tháng đầu năm. Thị trường địa ốc trầm lắng cũng sẽ giảm cầu vật liệu xây dựng. Đã có những tin tức rải rác cho thấy điều đó, như ôtô nhập về bán chậm, thép nhập về nay lại chuẩn bị xuất ngược trở lại. Ngay cả số lượng ô tô lắp ráp trong nước bán trong tháng 5 giảm gần 1.800 chiếc so với tháng trước, sẽ làm giảm linh kiện nhập khẩu.
Với tỷ giá đang biến động theo hướng Đô la Mỹ lên giá so với tiền đồng, nhà nhập khẩu sẽ khó mua Đô la hơn và hàng nhập sẽ đắt hơn nên xu hướng chung là nhập khẩu sẽ giảm. Vấn đề ở chỗ làm sao để khuyến khích xuất khẩu mạnh hơn nữa để giảm nhập siêu khi nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng đang phụ thuộc đầu vào là nguyên liệu nhập khẩu.
Sự linh hoạt trong tỷ giá chính là cách giúp nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam ở nước ngoài - một sự linh hoạt định giá tiền đồng dựa vào cả rổ tiền các ngoại tệ là bạn hàng của Việt Nam chứ không chỉ đồng Đô la Mỹ. Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính công nếu thực thi nghiêm chỉnh và kiên quyết cũng sẽ giúp giảm áp lực nhập siêu trong những tháng cuối năm.
Thực tế, nhập siêu đang giảm: tháng 3 là 3,3 tỉ Đô la, tháng 4 còn 2,8 tỉ Đô la và tháng 5/2008 giảm tiếp còn 2,6 tỉ Đô la (nguồn: Barclays Capital). Mức giảm này cần phải đẩy mạnh hơn nữa để tạo ra tác động tích cực lên các chỉ tiêu khác, nhất là lên cân đối cán cân thanh toán.
Về lạm phát, thật khó lòng cho Việt Nam khi đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá xăng dầu và giá lương thực tăng cao ở khắp thế giới, cũng tạo ra nỗi lo lạm phát cho nhiều nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, như nhiều người đã từng nói trước đây, lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều do chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm trước. Nay khi tín dụng bị thắt chặt, cung tiền tăng không đáng kể thì lạm phát sẽ có xu hướng dịu xuống trong những tháng tới khi chính sách này bắt đầu có tác dụng.
Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy cung tiền đã giảm 10% so với cùng kỳ, phù hợp với mức tăng nhập khẩu đang chậm lại tương ứng. Theo báo cáo “Taking Stock” của WB tại hội nghị giữa kỳ các nhà tài trợ, nếu loại trừ yếu tố lương thực, tốc độ tăng giá đang giảm dần từ tháng 3.
Điều cần lưu ý là kỳ vọng về lạm phát của người dân đóng vai trò quan trọng quyết định xu hướng giá cả. Vì thế, phải gắn chính sách lãi suất với việc kiềm chế lạm phát - lãi suất phải được nâng mức thực dương lên để người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng, từ đó chính sách tiền tệ mới có tác dụng nhanh.
Về các chỉ số khác, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, dường như Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội giá lương thực, thực phẩm trên thế giới đang tăng cao nên người nông dân chưa hưởng lợi bao nhiêu, lại đang chịu khó khăn do doanh nghiệp không có vốn mua hàng của họ để xuất khẩu.
Giá trị sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng của năm ngoái (16,4% cho năm tháng đầu năm), trừ ngành xây dựng. Điểm đáng lưu ý là WB trong tài liệu nói trên nhấn mạnh cho dù Việt Nam cố tình giảm tốc độ tăng trưởng GDP năm nay còn 7%, với quán tính tăng trưởng mạnh đến 8,4% trong năm ngoái, GDP năm 2008 vẫn sẽ tăng cao hơn con số Việt Nam mong muốn.
“Cho dù tốc độ phát triển ngành xây dựng giảm còn 0% trong những tháng còn lại trong năm và các ngành khác duy trì tốc độ tăng của quí 1, tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 7,5% trong năm 2008”, báo cáo viết. Nhấn mạnh điều này là để nói, cho dù cuộc chiến kiềm chế lạm phát phải trả giá, về ngắn hạn, cái giá đối với tăng trưởng cũng không đến nỗi quá cao và Chính phủ cần phải cương quyết nói không với áp lực duy trì tăng trưởng cao từ các ngành và nhất là các địa phương.
Vì tâm lý đang đóng vai trò quan trọng trong ổn định thị trường, chúng ta cũng nên điểm lại một số yếu tố tài chính, tiền tệ để có cái nhìn khách quan đến mức có thể được.
Về cán cân thanh toán, theo thông tin từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với ông David Fernandez, kinh tế trưởng của JP Morgan Chase, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam năm tháng đầu năm 2008 đang thặng dư 1 tỉ Đô la và cả năm 2008 sẽ thặng dư 2-3 tỉ Đô la. Nên nhớ chỉ tính riêng giải ngân các dự án FDI hiện nay cũng đã trên 1 tỉ Đô la mỗi tháng.
Báo cáo của WB cũng cho thấy những con số tương tự (cho dù thâm hụt thương mại được ước tính quá thấp): thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008 ước tính khoảng 11,3 tỉ Đô la sẽ được bù đắp bởi thặng dư tài khoản vốn chừng 14,8 tỉ, để cán cân thanh toán sẽ thặng dư dưới dạng dự trữ ngoại tệ khoảng 3,4 tỉ Đô la. Đây chính là những con số mà thị trường đang cần để bác bỏ những đồn đoán về khủng khoảng cán cân thanh toán của Việt Nam (xem bảng dưới bài).
Tuy nhiên, ở góc độ này, thị trường đang cần sự điều hành linh hoạt về tỷ giá để góp phần vào việc giảm nhập siêu, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, nâng thu nhập cho công nhân khối FDI mà mức lương tối thiểu đang được tính theo tiền Đô la và tước bỏ những vũ khí đầu cơ của giới tài chính nước ngoài. Tỷ lệ lạm phát cũng phải được tính đến khi điều hành tỷ giá, không chỉ với Đô la Mỹ mà còn với các ngoại tệ khác nữa.
Về tác động tới người dân, các nhóm lợi ích liên quan đến tài chính có tiếng nói khá mạnh, dù công khai hay không công khai trong khi các nhóm lợi ích đại diện cho người dân nghèo, nhất là nông dân, hầu như không tồn tại.
Vì thế, thực thi chính sách cần lưu ý để không bị tác động trước mắt hay áp lực của nhà đầu tư nước ngoài. Tuyên bố không phá giá tiền đồng đột ngột là theo hướng đó vì phá giá tiền đồng sẽ tác động mạnh lên lạm phát, làm chính sách thắt chặt tiền tệ khó thực thi hơn và nạn nhân chịu tác động lớn nhất vẫn là người nghèo sống bằng thu nhập tính từng tháng hay từng vụ mùa.
Đến 73% dân số đang sinh sống ở nông thôn. Nếu chính sách quay về với cơ bản để nâng cao sức mua của nông dân, chính thị trường trong nước sẽ là chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cuối cùng, về dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài chỉ nắm khoảng 25% cổ phần của các công ty niêm yết, cả thị trường chính thức và thị trường OTC. Như vậy tổng cộng dòng vốn gián tiếp khoảng 7-8 tỉ Đô la và đa số là loại vốn của các quỹ đóng, không thể rút đi được. Chỉ còn khoảng 2,5 tỉ Đô la vốn nóng cộng với khoảng 5 tỉ Đô la trái phiếu mà người nước ngoài đang nắm giữ.
Khi đưa ra các con số trên, Dragon Capital nhận xét: “Dự trữ ngoại tệ bằng 360% các món nợ nóng nước ngoài”. Các loại thông tin về tỷ giá tiền đồng/Đô la Mỹ dạng NDF tăng cao không liên quan gì đến tỷ giá thực vì chúng chỉ là dạng hợp đồng triển kỳ, mang tính cá cược, đến hạn không thanh toán mà chỉ chung chi phần chênh lệch thiệt-hơn. Hàng loạt thông tin như thế cần giải thích cặn kẽ với người dân bởi biến động trên thị trường chứng khoán, ngoại hối chủ yếu do tâm lý nhà đầu tư trong nước.
Điều quan trọng nhất là một khi chúng ta đã xác định nguyên nhân của tình hình hiện nay là do chính sách tiền tệ, tài khóa và đầu tư của các tập đoàn nhà nước, cần nhất quán và kiên định với các giải pháp đưa ra.
Cũng cần lưu ý làm sao để giảm tác động của các hoạt động tài chính lên hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế. Hai bên có mối quan hệ mật thiết nhưng dù sao ở Việt Nam, hoạt động tài chính chỉ mới nổi lên một hai năm gần đây. Giải tỏa vấn đề tâm lý chính là ở chỗ phân định đâu là ưu tiên cần làm với hai lĩnh vực này.
Cán cân thanh toán của Việt Nam (triệu USD) | ||
2007 | 2008 (dự báo) | |
A. Cân đối tài khoản vãng lai | -6.992 | -11.346 |
Cân đối thương mại (giá FOB) | -10.360 | -16.207 |
Chuyên chở, bảo hiểm, dịch vụ | -894 | -908 |
Chuyển lợi nhuận FDI về nước | -2.168 | -2.432 |
Kiều hối | 6.430 | 8.200 |
B. Cân đối tài khoản vốn | 17.541 | 14.847 |
FDI (giải ngân) | 6.550 | 5.800 |
Vay trung và dài hạn | 2.045 | 2.468 |
Vay ngắn hạn | 79 | 4 |
Đầu tư gián tiếp | 6.243 | 1.985 |
Tiền gửi | 2.624 | 4.500 |
C. Sai số | -381 | 0 |
D. Cân đối tổng thể (=A+B+C) | 10.168 | 3.501 |
Trong đó: tăng dự trữ ngoại hối | 10.144 | 3.475 |
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước năm 2007 và dự báo của WB cho năm 2008. |