
Giá vàng trong nước và thế giới
VnEconomy cập nhật giá vàng trong nước & thế giới hôm nay: SJC, 9999, giá vàng USD/oz, biến động giá vàng tăng, giảm - phân tích, dự báo & dữ liệu lịch sử.
Thứ Bảy, 06/12/2025
Vũ Khuê
11/11/2025, 10:45
Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về chính sách kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải có sự đột phá về giải pháp từ Chính phủ và doanh nghiệp…
Tại diễn đàn “Thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Chính sách và kết nối hành động” do Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới thuộc Việt Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ngày 10/11, GS.TS Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cho rằng kinh tế tuần hoàn vừa là con đường tất yếu để thực hiện cam kết phát triển bền vững, vừa là lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh tiêu chuẩn xanh của các thị trường đối tác ngày càng khắt khe hơn.
Đặc biệt, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, định hướng về kinh tế tuần hoàn không tách rời các chiến lược phát triển quốc gia mà trở thành một cấu phần quan trọng trong mô hình tăng trưởng mới.
CHÍNH SÁCH CÒN PHÂN TÁN, THIẾU HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
TS. Phí Vĩnh Tường, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, cũng khẳng định kinh tế tuần hoàn không chỉ là một mô hình sinh thái mà còn là một chiến lược phát triển bền vững mới, giúp tăng năng suất tài nguyên, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tạo việc làm xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Với Việt Nam, kinh tế tuần hoàn không còn là sự lựa chọn mà là con đường tất yếu để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, thực hiện các cam kết về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và cụ thể hóa Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 theo Quyết định 222/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23 tháng 01 năm 2025.
Trong bối cảnh các thị trường xuất khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc áp dụng hàng loạt các quy chuẩn xanh từ thiết kế sinh thái đến tiêu chuẩn tái chế và truy xuất vòng đời sản phẩm, nguy cơ Việt Nam bị loại ra khỏi các chuỗi giá trị toàn cầu rất cao, nếu chúng ta không nhanh chóng triển khai kinh tế tuần hoàn.
Vì vậy, thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết, hướng tới bảo đảm tăng trưởng xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập trong chuỗi cung ứng bền vững toàn cầu.
Theo TS Phí Vĩnh Tường, những năm qua, Việt Nam đã đạt được rất nhiều kết quả quan trọng về chính sách và thực tiễn, tuy nhiên, trong quá trình thực thi thì vẫn còn nhiều hạn chế. Chính sách còn phân tán, thiếu những hướng dẫn cụ thể cho các ngành; thiếu cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng; thiếu các công cụ tài chính xanh, hạ tầng tái chế và cơ sở dữ liệu quốc gia về dòng vật chất. Hơn nữa, năng lực của doanh nghiệp còn yếu, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp của Việt Nam.
Nói về mô hình tăng trưởng, PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới nhận định: mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn hai, chủ yếu dựa vào đầu tư, trong đó đầu tư công là chủ yếu. Đóng góp của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng còn ít. Năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp, và chúng ta chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu một cách xanh và bền vững.
Về thực tiễn triển khai, kinh tế tuần hoàn vẫn ở dạng sơ khai, chưa được áp dụng sâu rộng, chủ yếu chỉ nhìn thấy đâu đó trong nông nghiệp. Trong công nghiệp, khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp cộng sinh cũng mới chỉ dừng lại ở thí điểm, với khoảng 5 dự án.
Nguyên nhân sâu xa của nhưng hạn chế trên là do nhận thức đầu tư cho khoa học công nghệ còn hạn chế, đặc biệt, khu vực tư nhân đầu tư ít cho R&D. Thể chế, thị trường cấu phần chưa phát triển đầy đủ, thể chế cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn bất cập, thiếu đột phá.
Theo PGS.TS Bùi Quang Tuấn, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng (44% GDP), doanh nghiệp Việt vẫn còn bé, ít tập đoàn lớn.... Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu kỹ năng, chưa thu hút nhân tài.
"Hệ sinh thái cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Vì vậy, chúng ta vẫn đang thiếu những động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi xanh”, PGS.TS Tuấn nhấn mạnh.
HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ, TẠO PHONG TRÀO XÃ HỘI CHUYỂN ĐỔI XANH
Để tháo gỡ những "điểm nghẽn" trên, trước tiên đối với Chính phủ, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn cho rằng nếu xét về các chủ trương, chính sách lớn về chuyển đổi xanh, chúng ta đã khá đầy đủ. Đó là: Chiến lược phát triển bền vững; Chiến lược tăng trưởng xanh; Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh; Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn; và Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, trong chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, mục tiêu riêng về năng lượng xanh của chúng ta đã có những đột phá...
Tuy nhiên, để đưa những chủ trương lớn này vào thực tiễn, chúng ta vẫn cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, đồng thời giảm các rào cản pháp lý và hài hòa các tiêu chuẩn (ví dụ: để đi vào châu Âu, chúng ta phải hài hòa tiêu chuẩn của mình).
Tiếp đến là cần đột phá ở khâu thực thi và dành không gian cho đổi mới sáng tạo. Hiện nay, đây là khâu yếu nhất của chúng ta. Mặc dù có rất nhiều chiến lược, kế hoạch hành động, nhưng khi tổng kết lại, phần thực thi thường rất hạn chế, chủ yếu chỉ làm được phần nâng cao nhận thức và hoàn thiện cơ chế chính sách, còn sản phẩm có thể đo đếm được thì ít.
Cùng với đó, phát triển kết cấu hạ tầng, không chỉ hạ tầng về thu gom, phân loại, tái chế rác thải, mà còn là hạ tầng số. Kinh tế tuần hoàn gắn liền với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nên hạ tầng số là hết sức quan trọng. Hạ tầng số sẽ giúp chúng ta tăng trưởng nhanh và tăng trưởng bền vững, do đó cần phải được chú trọng đặc biệt.
Mặt khác, bổ sung các chính sách thí điểm (Sandbox) để tạo không gian cho đổi mới sáng tạo. Cần có cơ chế để doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình này, đầu tư nhiều hơn cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và R&D (Nghiên cứu và Phát triển).
Với doanh nghiệp, giải pháp đầu tiên là nâng cao nhận thức. Cần tạo ra một phong trào chuyển đổi xanh mạnh mẽ, trong đó nhấn mạnh rằng yếu tố xã hội là hết sức quan trọng, bao gồm nhận thức, truyền thông, đảm bảo công bằng và tính bao trùm ("không để ai bị bỏ lại phía sau").
Tiếp đến, doanh nghiệp phải chuẩn bị rõ ràng về ESG (Môi trường - Xã hội và Quản trị), tài chính, công nghệ và cách thức kết nối để đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế.
Cuối cùng, cần tạo lập được một nền tảng văn hóa chuyển đổi kép (chuyển đổi số gắn với chuyển đổi xanh).
Để tạo ra văn hóa chuyển đổi này, PGS.TS Bùi Quang Tuấn cho rằng cần đẩy mạnh nhận thức, truyền thông. Mục tiêu là tạo ra một phong trào chuyển đổi xanh trên toàn xã hội, trong đó doanh nghiệp dẫn đầu, có sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội trong một hệ sinh thái cùng với các nhà khoa học, viện, trường và nhà quản lý.
Từ đó, tạo ra văn hóa kinh tế tuần hoàn, văn hóa sống xanh, xây dựng một nền tảng chung với ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, và đặc biệt là tư duy đổi mới sáng tạo để đột phá vào các điểm yếu, điểm nghẽn. “Bằng cách này, chúng ta có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, đưa Việt Nam trở thành nhóm quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045”, PGS.TS Tuấn nhấn mạnh.
Trong nhiều năm qua, chất lượng không khí tại TP.Hồ Chí Minh liên tục ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong những thời điểm giao thông đông đúc, vận tải hàng hóa tăng cao hoặc điều kiện khí tượng bất lợi. Các báo cáo đều chỉ ra rằng phương tiện sử dụng động cơ diesel là một trong những nguồn phát thải chính gây ô nhiễm bụi mịn PM2.5 và khí NOx trong khu vực đô thị...
Những quy định pháp lý về giảm phát thải cùng với nhu cầu, yêu cầu tiêu chuẩn xanh của thị trường đã tạo sức ép, đồng thời cũng là động lực để các doanh nghiệp phải thay đổi để đáp ứng. Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức nhưng điều này cũng mở ra những cơ hội phát triển mới cho các doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Trong khuôn khổ Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA), Việt Nam đã tạo ra 16,2 triệu tCO₂tđ giảm phát thải giai đoạn 2018–2019, trong đó, 11,3 triệu tCO₂tđ đã được giao dịch, chuyển nhượng cho WB, huy động 56,5 triệu USD, còn dư 4,9 triệu tCO2tđ. Thực tế này đặt ra nhu cầu cấp thiết xác định các phương án giao dịch và thương mại hóa lượng tín chỉ carbon rừng còn lại cũng như tín chỉ carbon rừng hình thành tương lai, nhằm tối ưu hóa lợi ích tài chính và đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải...
Phát thải CO2 tăng kỷ lục, ô nhiễm không khí, nước biển dâng và các thảm họa thiên nhiên, lũ lụt với tần suất và cường độ ngày càng tăng. Các sự cố thảm họa (như lũ lụt) trước đây xảy ra khoảng 1000 năm một lần thì nay đã tăng lên khoảng 100 năm một lần…Thực tế này đòi hỏi giải pháp, hành động khí hậu kịp thời, cấp thiết cho một tương lai bền vững với những giải pháp phát triển xanh, giảm phát thải, chuyển dịch năng lượng công bằng, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới…
95% rác thải sinh hoạt đô thị, 90% rác thải sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý theo quy định. Dưới 50% rác thải sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng rác thải sinh hoạt được thu gom; trên 50% các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh được cải tạo, phục hồi môi trường; xóa bỏ các "điểm đen" về ô nhiễm môi trường;…
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: