Tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng tích cực, đạt 9,9% từ đầu năm sau 6 tháng đầu năm 2025 – mức cao nhất kể từ năm 2012. Nhóm Ngân hàng Thương mại Cổ phần đặc biệt là các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp tiếp tục là động lực chính, với mức tăng trưởng vượt trội tại VPB (+18,7%), HDB (+15,3%), NAB (+14,7%), MSB (+13,5%), SHB (+12,9%) và MBB (12,3%).
Ngược lại, tốc độ tăng trưởng tín dụng tại khối ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng bán lẻ khiêm tốn hơn: BID (+6,1%), VCB(+7,3%), ACB (+9,2%), OCB (+8,8%) và BVB (+6,5%).
Ngày 31/7 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã hoàn thành 80% hạn mức được cấp đầu năm, tạo thêm dư địa tăng trưởng cho các tháng còn lại.
Trong cập nhật triển vọng ngành ngân hàng mới đây, S&I Rating đánh giá mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% của Chính phủ là khả thi và có thể đạt mức 17 – 18% cả năm nếu nhu cầu vốn duy trì tích cực cùng với đà phục hồi của nền kinh tế. Đặc biệt, một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần lớn như MBB, VPB và HDB nhiều khả năng sẽ có tốc độ tăng trưởng vượt trội 25 – 30% so với toàn ngành trong năm 2025.
Tính đến cuối quý 2/2025, chất lượng tài sản toàn ngành nhìn chung cải thiện rõ rệt trừ một số ngân hàng quy mô nhỏ. Tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm xuống 1,24% so với 1,61% cuối quý 1 – mức thấp nhất trong 3 năm qua. Nợ xấu cũng hạ về mức 2,03% giảm 12 điểm so với quý liền kề trước đó và 20 điểm so với cùng kỳ.
Xu hướng cải thiện tập trung ở các Ngân hàng Thương mại Cổ phần lớn và vừa bao gồm VPB, SHB, MBB, ACB, OCB, TPB và VIB. Ngược lại, một số ngân hàng nhỏ BVB, PGB và VAB ghi nhận xu hướng nợ xấu tăng trở lại. Tỷ lệ hình thành nợ xấu tại nhóm này cũng nhích tăng trong Qúy 2, trái ngược với xu hướng giảm khoảng 20 điểm cơ bản ở các nhóm ngân hàng còn lại.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành ổn định quanh 80% trong Quý 2/2025 – chưa có nhiều biến chuyển và vẫn thấp hơn giai đoạn 2021 – 2022. LLR có sự phân hóa rõ nét giữa các ngân hàng, nhóm Ngân hàng Thương mại Cổ phần quy mô nhỏ nhìn chung có bộ đệm dự phòng thấp hơn nhiều nhóm ngân hàng quốc doanh.
Một số ngân hàng lớn MBB, SHB, VPB đã đẩy mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản cải thiện và thu nhập hoạt động tăng trưởng tốt như MBB +22% so với cùng kỳ, SHB +135% so với cùng kỳ. Ngược lại, PGB và VAB lại giảm trích lập mặc dù nợ xấu tăng.
Áp lực trích lập dự phòng vẫn tiếp diễn khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2019. Theo Nghị định 86/2024/NĐ-CP, tài sản bảo đảm là bất động sản nếu quá 2 năm kể từ khi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền xử lý, sẽ không còn được khấu trừ khi tính dự phòng. Quy định này có thể làm gia tăng chi phí dự phòng, đặc biệt tại những ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 duy trì ở mức cao và kéo dài.
Trong ngắn hạn, S&N Rating đánh giá nợ xấu toàn ngành nhiều khả năng duy trì đà giảm nhẹ. Tín dụng tăng mạnh tiếp tục góp phần hỗ trợ tỷ lệ nợ xấu giảm, nhờ dư nợ mẫu số tăng. Tuy vậy, trong trung và dài hạn, tăng trưởng tín dụng cao có thể tạo áp lực lên chất lượng tài sản do nợ xấu thường có độ trễ hình thành.
Về xu hướng lãi suất, áp lực đối với mặt bằng lãi suất huy động đang có xu hướng tăng dần trong nửa cuối năm 2025. Tín dụng dự kiến tiếp tục tăng trưởng mạnh, đòi hỏi các ngân hàng cũng phải tăng cường huy động vốn để đáp ứng, tạo sức ép lên lãi suất huy động. Bên cạnh đó, áp lực lên tỷ giá vẫn hiện hữu trước các biến động bên ngoài khó lường, cho thấy không gian nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời gian tới không còn nhiều.