09:09 04/01/2024

Fed giảm lãi suất, VN-Index không hẳn lúc nào cũng thăng hoa

Tuệ Lâm

Trong những đợt cắt giảm lãi suất gần đây của Fed từ năm 2000 đến nay, S&P500 và VN-Index đều có xu hướng giảm điểm. Một lý do là cắt giảm lãi suất thường xảy ra khi nền kinh tế đang yếu và cần được kích thích. Tuy nhiên, sau thời gian trung - dài hạn khi chính sách nới lỏng thẩm thấu, thị trường chứng khoán tăng trở lại...

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tại cuộc họp FOMC ngày 13/12/2024, FED đã phát đi một tín hiệu mềm mỏng. Đây là động thái được dự đoán từ trước, nhằm kích thích nền kinh tế Mỹ sau giai đoạn thắt chặt. Cùng với đó, cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sẽ diễn ra vào tháng 11/2024. Kết quả bầu cử có thể tác động đến chính sách kinh tế của Mỹ, từ đó ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Những diễn biến này có thể tác động đến kinh tế và chứng khoán thế giới, trong đó có Việt Nam.

Thống kê của BSC cho thấy, từ năm 2000 - nay, Fed đã trải qua 3 chu kỳ hạ lãi suất: Giai đoạn 2001 - 2003 (2,5 năm, 13 lần, mức giảm -5,5%); giai đoạn 2007 - 2008 (1,2 năm, 10 lần, mức giảm -5,25%); giai đoạn 2019 - 2020 (0,6 năm, 5 lần, mức giảm -2,52%).

FED cắt giảm lãi suất không thực sự mang lại lợi ích cho chứng khoán. Trong những đợt cắt giảm lãi suất gần đây của Fed từ năm 2000 đến nay, S&P500 và VN-Index đều có xu hướng giảm điểm. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho hiện tượng này. Một lý do là cắt giảm lãi suất thường xảy ra khi nền kinh tế đang yếu và cần được kích thích. Tuy nhiên, sau thời gian trung - dài hạn khi chính sách nới lỏng thẩm thấu, thị trường chứng khoán tăng trở lại.

Do đó, nhà đầu tư nên thận trọng khi đầu tư vào cổ phiếu trong thời kỳ Fed cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, nếu có thể nắm giữ cổ phiếu trong thời gian trung và dài hạn, nhà đầu tư có thể hưởng lợi từ sự phục hồi của thị trường khi chính sách nới lỏng thẩm thấu có hiệu quả.

Fed giảm lãi suất, VN-Index không hẳn lúc nào cũng thăng hoa - Ảnh 1

Đồng quan điểm, Chứng khoán Rồng Việt cũng cho rằng chu kỳ tăng lãi suất của Fed đã kết thúc khi các số liệu lạm phát và việc làm diễn biến khá thuận lợi, mở ra triển vọng cắt giảm trong 2024. Lịch sử cho thấy các đợt cắt giảm lãi suất do khủng hoảng thường kéo theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ, và những giai đoạn tiêu cực này lại có mối tương quan cao với thị trường chứng khoán Việt Nam.

Từ năm 1994, Fed thực hiện 6 chu kỳ cắt giảm lãi suất, 3 trong số đó được thực hiện khi nên kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái kết hợp khủng hoảng và khiến TTCK sụp đổ. Các lần giảm lãi suất còn lại được thực hiện khi Fed lo ngại nền kinh tế tăng trưởng chậm dưới mức tiềm năng (không suy thoái).

Fed sẽ cắt giảm lãi suất trong năm 2024 một cách lành mạnh trong bối cảnh kinh tế Mỹ không xảy ra suy thoái. DXY suy yếu tương ứng với diễn biến này, giúp giảm áp lực tỷ giá USD/VND, thị trường chứng khoán sẽ tích cực. Tuy nhiên, Fed cắt giảm mạnh tay hơn, gây tác động tiêu cực về tâm lý đầu tư trên thị trường thế giới do lo ngại khủng hoảng. Trong giai đoạn tiêu cực của thị trường chứng khoán thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam thường có mức độ tương quan cao. 

Với sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ, năm 2024, tháng 11 sẽ diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ - cuộc bầu cử này sẽ quyết định ai sẽ là tổng thống thứ 60 của Hoa Kỳ và sẽ có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại và kinh tế của Hoa Kỳ. Cuộc bầu cử tại nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể có những tác động lớn đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.

BSC đã thống kê phản ứng của S&P 500 và VN-Index trong những năm diễn ra bầu cử tại Hoa Kỳ: S&P500 và VN-Index đều có xu hướng tăng giá trong thời gian diễn ra các đợt bầu cử tổng thống tại Mỹ, lý do có thể đến từ thị trường kỳ vọng vào chính sách phát triển kinh tế xã hội của chính quyền mới. Mức độ tăng giá và thời gian tăng giá có thể khác nhau tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô và chính trị. Tuy nhiên, trong những năm khủng hoảng, tâm lý tiêu cực bao trùm tất cả những thông tin tích cực khác.

Nhìn chung, xu hướng tăng giá của S&P500 và VN-Index trong thời gian diễn ra các đợt bầu cử tổng thống tại Mỹ là một hiện tượng đáng chú ý. Tuy nhiên, mức độ tăng giá và thời gian tăng giá có thể khác nhau tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô và chính trị.