Gấp 132 lần quy mô tài sản, doanh nghiệp nhóm VPE500 đang dẫn dắt thị trường
Ngân Hà
10/08/2022, 10:53
Xuất hiện ở 57/63 tỉnh thành phố, nhóm 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500) đang hoạt động vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân trong nước với quy mô lao động và tài sản bình quân cao hơn 83 lần và 132 lần doanh nghiệp tư nhân nói chung…
Doanh nghiệp tư nhân thuộc nhóm VPE500 được xem như hàn thử biểu của khu vực doanh nghiệp.
Chia sẻ về Kết quả đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500) ngày 10/8, ông Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Dự báo kinh tế ngành và doanh nghiệp, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội quốc gia (NCIF- Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cho biết doanh nghiệp tư nhân trong nước đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Trong số 668,5 nghìn doanh nghiệp (số liệu năm 2019), doanh nghiệp tư nhân là 647,6 nghìn doanh nghiệp, chiếm 96,88% tổng số, đóng góp 15,12 triệu tỷ đồng (57%) tổng doanh thu thuần và thu hút hơn 9 triệu lao động.
Đáng chú ý, chỉ riêng nhóm 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (chiếm 0,089% tổng số doanh nghiệp) nhưng đã tạo việc làm cho 10,4% lao động, chiếm 13% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần.
“Theo đó, VPE500 có thể coi như lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường và kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp này có thể coi như hàn thử biểu của khu vực doanh nghiệp”, báo cáo của NCIF nhận định.
Xem xét riêng cho danh mục VPE500 của năm 2019 trong giai đoạn 2016-2019 cho thấy quy mô của VPE500 tăng nhanh hơn các nhóm doanh nghiệp khác. Các VPE500 có tốc độ tăng tài sản khoảng 15,4%/năm so với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung (5,6%/năm); doanh thu tăng 11,7%/năm so với 6,6%/năm.
Tuy nhiên, theo NCIF, năng suất lao động của VPE500 không tăng nhanh như quy mô, cho thấy nhóm doanh nghiệp lớn đang phát triển dựa trên mở rộng sản xuất hơn là theo chiều sâu. Năng suất lao động của VPE500 chỉ tăng khoảng 5,3%/năm, không quá vượt trội so với mức 4,6%năm của doanh nghiệp tư nhân trong nước khác và thấp hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp nhà nước.
“Mặc dù vậy, VPE500 có các chỉ số các chỉ số tài chính ngắn hạn như lợi nhuận/tài sản (ROA) hoặc lợi nhuận/vốn sở hữu (ROE) khá cao so với các doanh nghiệp tư nhân trong nước còn lại”, báo cáo nhận định.
Đáng chú ý, VPE500 có tác động lan tỏa về năng suất và lương tới các doanh nghiệp tư nhân trong nước, song có thể tạo ra tác động chèn lấn nhất định với doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Cụ thể, VPE500 trong cùng ngành có tác động tiêu cực về năng suất lao động tới các doanh nghiệp tư nhân khác. Khi quy mô của khối VPE500 tăng khoảng 1% làm cho năng suất lao động của doanh nghiệp tư nhân khác giảm đi 0,9%, cho thấy cạnh tranh giữa hai nhóm doanh nghiệp là khá gay gắt. Doanh nghiệp tư nhân trong nước có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do cạnh tranh lao động, nguồn lực và thị trường với VPE500.
“Thực tế cho thấy các doanh nghiệp lớn thường lấn át các doanh nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ từ Nhà nước, và trong nhiều năm qua các doanh nghiệp nhỏ ít tiếp cận được các hỗ trợ của Nhà nước", ông Thắng nhận định.
Đóng góp của VPE500 qua các năm.
Các VPE500 hạ nguồn (VPE500 là khách hàng của doanh nghiệp tư nhân, hoặc doanh nghiệp tư nhân là nhà cung cấp của VPE500) có tác động tích cực tới doanh nghiệp tư nhân trong nước. Điều này là phù hợp với lý thuyết, các doanh nghiệp nhỏ nếu trở thành nhà cung cấp cho doanh nghiệp lớn thì có thể có lợi về mặt năng suất (tăng thị trường, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật…). Mức độ tác động này nhỏ hơn so với cả doanh nghiệp tư nhân trong nước và VPE500 cùng ngành (0,6%).
Trong khi đó, các VPE500 thượng nguồn (VPE500 là nhà cung cấp của các doanh nghiệp nhỏ hơn) có tác động âm tới các doanh nghiệp tư nhân khác, mặc dù mức tác động thấp, chỉ khoảng -0,3%. Điều này có thể do số lượng doanh nghiệp tư nhân trong nước là rất lớn nên tác động của VPE500 tới khách hàng là doanh nghiệp tư nhân trong nước không lớn, trong khi các doanh nghiệp tư nhân trong nước khác chịu tác động âm về tiếp cận nguồn lực.
So sánh giữa tác động của VPE500 tới doanh nghiệp tư nhân trong nước và giữa các doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp tư nhân có sự khác biệt đáng kể. Tác động tiêu cực của cạnh tranh do FDI tạo ra nhỏ hơn khoảng 3 lần (-0,29% so với -0,94%) có thể do doanh nghiệp FDI chủ yếu xuất khẩu nên ít có tác động cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp tư nhân trong nước. Tác động tích cực trong trường hợp doanh nghiệp tư nhân trong nước là nhà cung cấp của VPE500 và FDI khá rõ ràng và tác động của VPE500 cao hơn đáng kể (khoảng 0,1 điểm %).
Mặc dù doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, nhưng theo NCIF, nhóm VPE500 của Việt Nam chưa trở thành lực lượng hùng mạnh như kỳ vọng, chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn đạt được tầm cỡ thế giới. Một số doanh nghiệp tư nhân lớn đã xuất hiện nhưng số lượng chưa nhiều và các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và vừa gặp nhiều trở ngại (cả khách quan và chủ quan) trong quá trình phát triển.
Trên cơ sở phân tích VPE500 và quan hệ với doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung, nhóm nghiên cứu cho rằng cần thiết phải có những chính sách cụ thể hơn nữa để xây dựng được một lực lượng các doanh nghiệp tư nhân lớn, phát triển ổn định, chống chịu được các cú shock lớn từ bên ngoài, và làm tăng hiệu quả của toàn nền kinh tế.
Theo đó, nhóm chuyên gia NCIF cho rằng các chính sách trong thời gian tới cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng không chỉ tạo thuận lợi với doanh nghiệp trong gia nhập thị trường mà còn giúp doanh nghiệp sống sót và tăng trưởng. Đặc biệt cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư để cải tạo năng suất chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu.
Có chính sách kinh tế thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước trong nước; đồng thời nâng cao năng lực doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Cần khuyến khích và tạo phong trào để từng địa phương xây dựng được các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu của mình dựa trên những lợi thế địa phương và vươn tầm hoạt động trên phạm vi cả nước.
VPE500 đánh giá trên 3 tiêu chí: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu thuần. Chỉ số sử dụng cho xếp hạng là trung bình cộng của thứ hạng theo 3 tiêu chí.
Cách xếp hạng này khác với cách xếp hạng của báo cáo hiện nay của Việt Nam (VNR500) hoặc của Fortune500 hoặc Top500 của Trung Quốc, trong đó chỉ sử dụng từng chỉ số riêng lẻ nhưng giống với cách xếp hạng trong báo cáo 2007 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về 200 doanh nghiệp công nghiệp lớn nhất ở Việt Nam hoặc phần nào giống với cách xếp hạng của Forbes Global 200.
Mời quý độc giả đón đọc Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2025 phát hành ngày 18/08/2025 với nhiều chuyên mục hấp dẫn...
Ninh Bình sắp khánh thành 3 dự án gần 9.000 tỷ đồng
Ba công trình giao thông và sản xuất quy mô lớn sắp được khánh thành tại Ninh Bình sẽ góp phần tạo bước đột phá về kết nối vùng, phát triển kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất cho khu vực đồng bằng sông Hồng…
Hơn 40.000 tỷ đồng đầu tư hạ tầng chiến lược tại Quảng Trị giai đoạn mới
UBND tỉnh Quảng Trị vừa có tờ trình gửi HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2026 - 2030, với tổng số vốn dự kiến hơn 40,3 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần so với giai đoạn trước.
Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo “khát” vốn, thiếu đất và chờ đợi sandbox
Trong khi tiếp cận vốn và đất đai vẫn còn là rào cản lớn với các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thì cơ chế thử nghiệm đột phá (sandbox) dù rất được kỳ vọng vẫn đang chờ được khai mở…
Phó Thủ tướng Nguyễn Hoà Bình dự hội nghị xúc tiến đầu tư tại Bắc Ninh
Chiều 15/8, UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, trao quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định lựa chọn nhà đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án lớn; khởi công khu nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: