09:25 16/03/2007

“Giá cổ phiếu sẽ vẫn còn cao”

Quang Phúc thực hiện

Hỏi chuyện ông D. Fernandez, Giám đốc Bộ phận nghiên cứu - phát triển khu vực châu Á của Ngân hàng JP Morgan

Nhiều nhà đầu tư mới gia nhập thị trường đã có tâm trạng bất an sau khi chứng khoán liên tiếp tục dốc những ngày qua - Ảnh: TP.
Nhiều nhà đầu tư mới gia nhập thị trường đã có tâm trạng bất an sau khi chứng khoán liên tiếp tục dốc những ngày qua - Ảnh: TP.
Ngày 14-15/3, tại Hà Nội, Ngân hàng JP Morgan có cuộc gặp gỡ với lãnh đạo Bộ Tài chính, các tập đoàn lớn của Việt Nam để chia sẻ những báo cáo phân tích toàn diện về nền kinh tế Việt Nam và những lĩnh vực kinh doanh mà tập đoàn này quan tâm, như cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư, tư vấn, bảo lãnh và tổ chức phát hành, tư vấn mua bán cổ phiếu chiến lược cho doanh nghiệp nhà nước.

Ông David G. Fernandez - Giám đốc Bộ phận nghiên cứu - phát triển khu vực châu Á của Ngân hàng JPMorgan - đã chia sẻ với báo giới xung quanh các vấn đề "nóng” của thị trường tài chính hiện nay. 

Ông nhận định thế nào về sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam và có đánh giá phân tích gì về những yếu tố rủi ro của thị trường này trong bối cảnh hiện nay?

Vấn đề quan trọng nhất vẫn là cán cân cung cầu. Ở cả 2 thị trường chính thức và thị trường không chính thức tôi đều thấy có sự mất cân đối khá lớn giữa cung và cầu, tôi nghĩ đây chính là vấn đề mà Chính phủ Việt Nam cần giải quyết.

Tôi có nói chuyện với các khách hàng của JP Morgan thì mọi người đều thấy rằng nhu cầu về chứng khoán ở Việt Nam đều đang rất lớn và gia tăng. Đối với các nhà quản lý quỹ thì có lẽ sẽ rất đơn giản vì chỉ việc đến Mỹ hoặc Châu Âu kêu gọi các nhà đầu tư gom tiền đầu tư chứng khoán ở thị trường Việt Nam, và tôi có nói chuyện với khách hàng của JP Morgan ở Hồng Kông, Singapore và Hàn Quốc thì hiện giờ họ đang gom tiền và mục đích chính là để đầu tư vào Việt Nam.

Hiện giờ số tiền họ gom được đã lên đến 1 tỉ USD. Tuy nhiên họ vẫn chưa đầu tư vào Việt Nam. Nếu nói về cán cân cung cầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện giờ thì mặc dù trong những năm tới chúng ta có thêm các công ty được cổ phần hóa, cũng như số hàng hóa sẽ nhiều hơn nữa, thì nhu cầu cho các công ty đã được niêm yết sẽ vẫn còn cao và mức giá cổ phiếu vẫn còn cao.

Điều mà tôi quan tâm cũng như lo ngại nhất và tôi cho là có rủi ro chính là thị trường phi tập trung OTC vì khi thị trường này ngày càng được chuẩn hóa thì cũng đồng nghĩa với việc ngày càng được mở rộng về mặt quy mô, sẽ có nhiều công ty hơn, và khi đó tính thanh khoản của thị trường lại giảm đi rất nhiều và đây chính là thời điểm có thể xảy ra các nguy cơ vì các nhà đầu tư, thường là các nhà đầu tư cá nhân sẽ không thể ấn định được, nhận biết được mức giá cổ phiếu của mình đang ở đâu nữa.

Đó sẽ là lúc cần đến các nhà làm luật vì người ta cần biết được các biện pháp cũng như những chính sách rõ ràng để có thể ấn định trước được điều sẽ xảy ra. Hiện giờ theo chúng tôi, thị trường vẫn chưa có những dấu hiệu bất ổn lắm.

Những nguy cơ tiềm ẩn khác là gì?

Các nhà làm luật Việt Nam cũng thấy đã đến lúc cần phải có biện pháp khi giá trị của các cổ phiếu của Việt Nam hiện đang được định giá rất cao và có lẽ còn tiếp tục cao nữa. Đối với các cá nhân thì giờ mọi người đều cảm thấy hiệu suất làm việc đang dần thấp đi vì tất cả mọi người đều đang tập trung vào thị trường cổ phiếu.

Các công ty thì mặc dù không liên quan nhiều đến cổ phiếu, lĩnh vực kinh doanh không liên quan đến thị trường tài chính nhưng họ đều quay sang thị trường cổ phiếu khi biết rằng lợi nhuận ở đó sẽ rất cao.

Và đây chính là lý do tôi nghĩ rằng cần được quan tâm giải quyết khi chúng ta không quan tâm đến lĩnh vực làm ăn chính của chúng ta mà quan tâm quá nhiều đến thị trường cổ phiểu vì thị trường này đang phát triển quá nhanh và không ai muốn bỏ lỡ cơ hội. Và khi chúng ta sao nhãng công việc của mình thì đây chính là vấn đề cần quan tâm.

Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam ngày càng lớn, vậy khi các quỹ đầu tư nước ngoài cùng ồ ạt rút vốn ra liệu có tạo nên nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính như cuộc khủng hoảng năm 1997 đối với Việt Nam hay không, thưa ông?

Đúng là vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng đem lại một số rủi ro. Tuy nhiên theo ý kiến của chúng tôi, nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính sẽ ít xảy ra vì các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay vào Việt Nam hầu như không muốn bán cổ phần của họ thậm chí hiện giờ tôi còn thấy họ đang phải tranh đấu với nhau để vào thị trường Việt Nam, đang hi vọng có người bán để họ mua.

Mặc dù họ không muốn là người đầu tư trực tiếp, họ không xây dựng nhà xưởng hay các công trình dân sự mà chúng ta có thể thấy được nhưng phần lớn họ đều đang mua những cổ phần mang tính dài hạn và đều đang hi vọng về một sự phát triển có tính chất lâu dài. Nhiệm vụ của Chính phủ là tạo ra một môi trường đầu tư mà ở đó các nhà đầu tư chỉ muốn vào mà không muốn ra và tôi nghĩ rằng thực ra sẽ không phải là một ý kiến hay nếu chúng ta bắt nhà đầu tư phải giữ tiền của họ mà không cho họ đổ vào thị trường.

Cho nên tôi chốt lại rằng rủi ro thì có, nhưng trong điều kiện hiện giờ của Việt Nam thì tôi chưa thấy rủi ro rõ và tôi thấy rằng môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay là tương đối thuận lợi và các nhà đầu tư đều muốn ở lại Việt Nam.

Các nhà đầu tư nước ngoài đều tương đối an tâm về các chính sách ngoại hối, về đầu tư cổ phần hóa... và các nhà đầu tư nước ngoài hiểu được các hành động cũng như các chính sách này.

Tuy nhiên tôi cũng hơi lo lắng về mức độ minh bạch vì dù như tôi vừa nói là các nhà đầu tư đều tương đối an tâm về các chính sách, và các chính sách là có thể dự đoán được nhưng càng ngày người ta sẽ càng yêu cầu mức độ minh bạch hóa cao hơn từ phía Chính phủ, từ phía các doanh nghiệp cũng như phía các nhà đầu tư. Theo quan sát của tôi hiện giờ thì mức độ minh bạch ở Việt Nam cũng chưa cao.

Quay lại câu hỏi là liệu có tình trạng rút vốn ra ngoài không, theo tôi nếu các nhà đầu tư quyết định rút vốn ra khỏi thị trường Việt Nam thì đó là vì họ thấy mức độ minh bạch hóa ở Việt Nam chưa được cải thiện theo như mong đợi.