Khoa học Công nghệ là động lực trong chuỗi giá trị ngành lâm nghiệp
Khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động nâng cao chuỗi giá trị sản xuất lâm nghiệp, góp phần phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao về kiến thức và thực tiễn đáp ứng yêu cầu của ngành lâm nghiệp và phát triển nông thôn…
Chủ trì hội thảo “Định hướng phát triển Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo Lâm nghiệp giai đoạn 2022-2030” diễn ra đầu tuần, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh nhấn mạnh: "Khoa học công nghệ không những giải quyết được vấn đề quỹ đất mà còn đa dạng hóa nguồn thu từ rừng như bán tín chỉ carbon, phí chi trả dịch vụ môi trường rừng..."
DƯ ĐỊA CHO TĂNG TRƯỞNG LÂM NGHIỆP CÒN RẤT LỚN
Đánh giá thực trạng các hoạt động khoa học công nghệ ngành Lâm nghiệp giai đoạn 2017-2021, ông Trần Quang Bảo, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, cho biết trong những năm qua, ngành Lâm nghiệp đã có sự phát triển mạnh, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ có tốc độ tăng trưởng nhanh và đã được khẳng định là ngành kinh tế- kỹ thuật đặc thù, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm lâm nghiệp từ quản lý, bảo vệ, phát triển đến sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản.
Giá trị xuất khẩu của ngành gỗ trong năm 2021 đạt 15,87 tỷ USD, xuất siêu trên 13 tỷ USD. Sức tăng trưởng này thể hiện rõ, dư địa cho ngành gỗ rất lớn. Trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành một trung tâm toàn cầu về sản xuất, xuất khẩu đồ gỗ có thương hiệu, có uy tín trên thế giới.
"Hiện ngành lâm nghiệp tăng cường năng lực quản trị rừng cho các chủ rừng thông qua việc thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá tài nguyên rừng; ứng dụng công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS), công nghệ thông tin trong quản lý ngành lâm nghiệp. Tiến tới đến năm 2030, 100% chủ rừng là tổ chức có đủ năng lực theo dõi, giám sát, quản lý tài nguyên rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng dựa trên khoa học công nghệ".
Ông Trần Quang Bảo, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp.
Theo ông Bảo, bên cạnh các mục tiêu kinh tế, ngành lâm nghiệp còn chú trọng nhiệm vụ phát triển rừng. Cụ thể: Trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng các loài cây bản địa, quý hiếm bình quân 4.000 - 6.000 ha/năm; phục hồi rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trung bình 15.000 ha/năm; nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, năng suất và hiệu quả rừng trồng và các hệ thống nông lâm kết hợp; diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt trên 500.000ha vào năm 2025.
Để hoàn thành những mục tiêu này, ông Trần Quang Bảo nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ. Thông qua kết quả các nghiên cứu thời gian qua, ngành lâm nghiệp đã công nhận 229 giống, trong đó: 95 giống của 6 loài keo; 85 giống của 5 loài bạch đàn; 33 giống của 4 loài tràm; 4 giống thông Caribeae; 10 giống thanh thất, chiêu liêu; và 2 giống phi lao. Riêng giai đoạn 2010 - 2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận tổng cộng 102 giống mới.
Là doanh nghiệp luôn chú trọng ứng dụng công nghệ vào sản xuất, ông Vũ Văn Hường, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor), cho biết Vinafor đã lên kế hoạch khởi công trung tâm nuôi cấy mô tại Hòa Bình vào cuối năm 2022, với công suất dự kiến 23 triệu cây/năm.
Vinafor hiện có 11 đơn vị thành viên tham gia sản xuất, cung ứng cây giống chất lượng cao, mỗi năm cung cấp trên 20 triệu cây mô và trên 10 triệu cây hom; cung cấp cho thị trường hơn 20 dòng vô tính bạch đàn, keo lai, keo lá tràm với chất lượng di truyền được cải thiện qua từng năm.
ĐA DẠNG HÓA NGUỒN THU TỪ RỪNG
GS.TS Trần Văn Chứ, Hiệu trưởng Đại học Lâm nghiệp, thông tin tại hội thảo về định hướng phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2022 - 2030 mà nhà trường đang thực hiện, bao gồm 6 lĩnh vực: Lâm nghiệp và Phát triển bền vững; Công nghiệp chế biến; Môi trường và Biến đổi khí hậu; Nông nghiệp và Công nghệ sinh học; Kinh tế, chính sách; Công nghệ cao, chuyển đổi số.
Đồng thời, nhà trường đang đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, tư vấn, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - đào tạo - sản xuất.
“Mục tiêu của Đại học Lâm nghiệp là tăng số lượng đề tài, dự án, công trình, dịch vụ khoa học công nghệ thêm ít nhất 10%/năm, đóng góp tích cực cho công tác đào tạo và bổ sung nguồn thu cho tiến trình tự chủ của nhà trường. Đến năm 2025, trường phấn đấu đạt tỷ lệ ứng dụng các nhiệm vụ khoa học công nghệ vào thực tiễn trên 90%”, GS.TS Trần Văn Chứ nhấn mạnh.
Chủ trì hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh cho biết, ngành lâm nghiệp đang nhận sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành, địa phương. Hiện hệ thống văn bản chính sách, quy phạm pháp luật cho ngành lâm nghiệp khá toàn diện. Bên cạnh đó, ngành đang triển khai nhiều đề án quan trọng như chế biến lâm sản, trồng 1 tỷ cây xanh, trồng rừng ven biển...
"Không thể một lúc mà chúng ta có thể thay cây bản địa bằng rừng gỗ lớn, dù hiệu quả kinh tế vượt trội. Rất nhiều vấn đề liên quan như giống, thâm canh vùng nguyên liệu, công tác chế biến, tổ chức sản xuất. Vì thế, tất cả đều cần tổ chức một cách bài bản, căn cơ, kể cả phương thức kết nối với doanh nghiệp".
Ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Ngành lâm nghiệp chủ trương duy trì tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42%, nhưng quỹ đất phát triển cho ngành hiện không còn nhiều. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tiến dần đến việc chủ động nguyên liệu chế biến, nâng cao hơn nữa chất lượng gỗ từ rừng trồng.
"Đây là thời điểm thích hợp để phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm tạo động lực cho ngành lâm nghiệp nói riêng, và cả hệ thống kinh tế - xã hội nói chung. Khoa học công nghệ không những giải quyết được vấn đề quỹ đất mà còn đa dạng hóa nguồn thu từ rừng như bán tín chỉ carbon, phí chi trả dịch vụ môi trường rừng.. ”, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh.
Khác với những lĩnh vực khác của nông nghiệp, lâm nghiệp cần thời gian dài để kiểm nghiệm kết quả. Ví dụ như cây keo, một loài cây lâm nghiệp mọc nhanh, cũng cần từ 5 - 7 năm mới cho thu hoạch, lâu gấp chục lần so với việc trồng lúa, hoa màu, và cũng gấp đôi so với trồng cây ăn quả.
Định hướng cho khoa học công nghệ, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh khẳng định ứng dụng khoa học công nghệ trước mắt vẫn nên tập trung vào khâu giống, vì đây là yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng của cây rừng. Ứng dụng khoa học công nghệ sâu rộng cần đi đôi với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Cùng với đó, quy trình tổ chức sản xuất cần lắng nghe theo tín hiệu thị trường.