Lãi suất, tỷ giá USD/VND và những biến số thời gian tới
Nhiều yếu tố đang và sẽ tác động trái chiều tới lãi suất và tỷ giá USD/VND tới đây
Ngay sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán vừa qua, lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng và tỷ giá USD/VND cùng có những thay đổi nhanh. Và một lần nữa, Chính phủ tiếp tục nêu định hướng phấn đấu giảm lãi suất cho vay.
Trao đổi với VnEconomy, ông Trịnh Quang Anh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế Maritime Bank, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nghiên cứu thị trường tài chính - tiền tệ của các ngân hàng tại Việt Nam (VIRA), nhìn nhận về những yếu tố đang và dự kiến sẽ tác động trái chiều.
Hai lý do tỷ giá tạm thời tăng
Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, tỷ giá USD/VND có xu hướng đi lên sau một thời gian dài ổn định. Theo ông, đây là diễn biến ngắn hạn có tính thời điểm nào đó, hay là gợi mở một xu hướng?
Tôi cho đây là biến động tạm thời. Về xu hướng dài hạn, dễ được chấp nhận là VND có khả năng mất giá dần so với USD, đặc biệt khi mà kinh tế Mỹ đang phục hồi mạnh mẽ, vững chắc và đồng USD sẽ điều chỉnh lên giá.
Tuy nhiên trong ngắn hạn, các nhân tố tích cực hỗ trợ tỷ giá USD/VND và thị trường ngoại tệ vẫn đang lấn át một vài nhân tố bất lợi.
Lý giải cho hiện tượng tỷ giá sau Tết Nguyên đán, tôi cho rằng có hai lý do chính.
Một là, trạng thái đồng USD toàn hệ thống sát Tết đã về âm và các ngân hàng đã không còn mua ròng được từ khách hàng ở mức giá cũ, trong khi những ngày trước Tết đã bán mạnh kỳ hạn 3 tháng cho Ngân hàng Nhà nước.
Trong bối cảnh chênh lệch lãi suất "đô - đồng" (swap point) trên thị trường tiền tệ giảm nhanh sau Tết, tức chi phí nắm giữ USD trở nên rẻ, các ngân hàng có động cơ đẩy mạnh mua vào để khôi phục trạng thái, khiến cầu ngoại tệ tăng nhanh.
Hai là, những động thái chính sách mới đây của Chính phủ Mỹ làm dấy lên tâm lý e ngại sẽ có dòng tiền chạy ra. Tiếp theo quyết định của Tổng thống Mỹ áp dụng biện pháp hạn chế đối với hàng nhập khẩu là máy giặt và tấm pin mặt trời, nay khả năng sắp đến lượt mặt hàng thép, nhôm, và có thể còn nữa nữa…
Những động thái phòng vệ hay bảo hộ thương mại này, có ảnh hưởng khá đáng kể tới kinh tế Việt Nam, đằng sau là khu vực FDI.
Nhìn rộng hơn, việc Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mới (CP TPP) sắp được ký kết không có Mỹ, khiến các nhà đầu tư nước ngoài đã vào Việt Nam nhằm đón đầu hưởng lợi từ TPP ban đầu có Mỹ, có thể nản lòng, rút dần vốn.
Bị cộng hưởng thêm nữa là xu hướng lãi suất USD quốc tế lên giá nhanh cùng gói chính sách kích thích tài khóa mới của Tổng thống Mỹ sẽ khiến dòng vốn quốc tế đảo chiều, sớm quay về Mỹ.
Dù vậy, tôi vẫn muốn nhấn mạnh rằng, trong ngắn hạn, ổn định tỷ giá USD/VND cơ bản vẫn đang được hỗ trợ mạnh mẽ bởi nhiều nhân tố tích cực, như: USD quốc tế đã mất giá mạnh kể từ đầu năm 2017 tới nay; dòng vốn vào Việt Nam vẫn đang thuận lợi, đặc biệt là dòng M&A; dự trữ ngoại hối Nhà nước được gia tăng mạnh; và yếu tố tâm lý được cải thiện hơn bao giờ hết.
Điều tiết cung tiền đang khá tốt
Liên quan đến tỷ giá, năm 2017 và đầu 2018 Ngân hàng Nhà nước liên tục mua ròng lượng lớn ngoại tệ, đi cùng là lượng lớn tiền đồng đưa ra. Ông nhìn nhận thế nào về áp lực của dòng chảy này đối với lạm phát và việc hấp thụ nguồn tiền đồng cũng như trung hòa tác động của nó?
Phải nói là Ngân hàng Nhà nước đang điều tiết cung tiền, bao hàm cả nghiệp vụ trung hòa tiền tệ, rất linh hoạt, chủ động.
Bạn thấy đó, đáp ứng cho nhu cầu tiền đồng ngắn hạn thời vụ Tết tăng vọt, nghiệp vụ mua mạnh ngoại tệ đã cơ bản làm thỏa mãn, khiến hoạt động trên thị trường mở năm nay trở nên "nhàn nhã" khác thường.
Theo đó lãi suất thị trường cũng biến động trong biên độ hẹp hơn và trong thời gian ngắn hơn so với những dịp Tết các năm trước.
Sau Tết, cầu tiền giảm xuống, việc hút mạnh tiền về là dễ hiểu, cho dù nguồn tiền này trước đó được cung ra chủ yếu qua nghiệp vụ mua vào ngoại tệ hay cho vay cầm cố trên thị trường mở.
Và như bạn cũng biết ở một bài viết gần đây trên VnEconomy, động thái mua kỳ hạn USD 3 tháng được Ngân hàng Nhà nước đưa ra vào thời điểm cận Tết cho thấy những toan tính căn chỉnh dòng tiền đồng bơm vào hệ thống.
Xin lưu ý là việc có gây áp lực sau độ trễ cho lạm phát hay không là phụ thuộc vào khả năng kiểm soát tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2) trong nền kinh tế. Mà việc này Ngân hàng Nhà nước vẫn đang làm khá tốt.
Như trên, sau Tết, Ngân hàng Nhà nước đang hút mạnh tiền về, lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục giảm mạnh. Cũng như năm 2017, lãi suất VND ở mức rất thấp trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, mức độ thẩm thấu của lãi suất trên thị trường này sang thị trường 1 (với doanh nghiệp và dân cư thông thường) như thế nào, theo đánh giá của ông?
Thừa nhận một thực tế là có sự kém truyền dẫn về lãi suất giữa các thị trường tiền tệ thành phần. Nói cách khác, mặt bằng các loại lãi suất hiện khá vênh lệch, thiếu lãi suất tham chiếu có hiệu lực, thiếu vắng đường cong lãi suất chuẩn. Rộng hơn, là sự thiếu vắng một cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực, hiệu quả.
Điều này chủ yếu do trình độ phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam và do việc lựa chọn mục tiêu hoạt động ưu tiên cũng như khung khổ tiền tệ để theo đuổi của Ngân hàng Nhà nước.
Tôi được biết, Ngân hàng Nhà nước đang tích cực thực hiện đề án cải cách thị trường tiền tệ và đặc biệt là đề tài đổi mới điều hành chính sách lãi suất nhằm nâng cao hiệu lực của chính sách tiền tệ. Rất hy vọng những nghiên cứu này sớm được triển khai vào thực tiễn.
Chìa khóa giảm lãi suất
Còn năm nay, một lần nữa Chính phủ định hướng tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Ông đánh giá thế nào về triển vọng thực tế của định hướng này?
Xét trong điều kiện bình thường, các yếu tố vĩ mô hiện hành, cả quốc tế và trong nước, hầu như không ủng hộ cho chủ trương này.
Dễ hiểu là khi kinh tế toàn cầu phục hồi mạnh mẽ, xu hướng lãi suất - công cụ tự định, tăng lên là tất yếu.
Tình trạng tương tự cũng sẽ diễn ra trong nền kinh tế Việt Nam khi đà khởi sắc tiếp tục được khẳng định, cộng thêm là xu hướng lãi suất quốc tế tăng gây áp lực làm tăng lãi suất trong nước.
Tuy nhiên, vấn đề là mặt bằng lãi suất cho vay nền kinh tế hiện nay có lẽ chưa ở trạng thái bình thường.
Các hoạt động ở cấp độ vi mô như tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu, nếu được triển khai tốt, hiệu quả, sẽ là chìa khóa giúp biến chủ trương giảm mặt bằng lãi suất trở nên khả thi.