“Nền kinh tế đang ở thế bất lợi hơn năm 2008”
Tiêu đề báo cáo “Nền kinh tế trước ngã ba đường” cho thấy phần nào những khó khăn kinh tế Việt Nam đang đối mặt
Tăng trưởng GDP năm 2011 có thể thấp hơn dự kiến với lạm phát lên tới hai con số là kết quả một nghiên cứu, vừa được Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) - thuộc Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) - công bố sáng nay, 17/5.
Báo cáo kinh tế năm 2011 có tiêu đề “Nền kinh tế trước ngã ba đường” cũng cho thấy phần nào những khó khăn nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt.
Thế bất lợi
Theo nhóm tác giả báo cáo, nếu xét về không gian cho các chính sách vĩ mô, hiện nay Việt Nam ở vào thế bất lợi hơn so với năm 2008, cho dù đó là năm chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Cách đây khoảng 3 năm, ngân sách chưa bị thâm hụt quá sâu nên chính sách tài khóa còn có thể khá linh hoạt; lạm phát bắt đầu bùng lên cao nhưng lãi suất lúc đó chưa cao, và khả năng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát là chấp nhận đuợc.
Thêm vào đó, dự trữ ngoại hối năm 2008 đang ở đỉnh điểm, có thể can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối. Tâm lý của người dân và doanh nghiệp khi đó cũng vẫn còn khá lạc quan vì cuộc khủng hoảng mới chỉ bắt đầu.
Sau hai năm chống đỡ những khó khăn về kinh tế, sử dụng công cụ tài khóa một cách mạnh mẽ khiến nợ công đã tăng rất mạnh và thâm hụt ngân sách duy trì ở mức cao, không gian chính sách về khía cạnh tài khóa không còn nhiều, Báo cáo lưu ý.
Trong khi đó, cũng năm 2010, Việt Nam cũng sử dụng nhiều can thiệp về tiền tệ như nâng lãi suất, thắt chặt hơn cung tiền và tín dụng, giảm mạnh dự trữ ngoại hối để bình ổn tỷ giá khiến không gian chính sách về khía cạnh tiền tệ bị thu hẹp.
Báo cáo kết luận: “Trong năm 2011, các công cụ chính sách không còn nhiều cơ hội vận dụng với quy mô lớn được nữa. Điều này đã thể hiện rõ trong những tháng đầu năm, khi chúng ta phải sử dụng nhiều công cụ hành chính quyết liệt trong việc can thiệp vào các thị trường”.
Hai kịch bản tăng trưởng
Phân tích các nguồn lực hạn chế hơn trong năm nay, báo cáo đưa ra hai kịch bản cho nền kinh tế.
Ở kịch bản thứ nhất, với chính sách tiền tệ được thắt chặt một cách “kiên nhẫn” (kéo dài đến hết năm) đi liền với cắt giảm chi đầu tư công “ nghiêm khắc” như tinh thần của Nghị quyết 11, nhóm nghiên cứu cho rằng lạm phát năm nay vẫn có thể cao tới 15,5%, trong khi tăng trưởng chỉ đạt khoảng 6,2%, thấp hơn so với năm 2010 và chỉ tiêu của năm nay.
“Việc lạm phát hay mức giá chung năm nay tăng cao bắt nguồn từ sự điều chỉnh lớn trong giá các mặt hàng thiết yếu và nguyên liệu đầu vào, cũng như đà tăng giá sau khi nới lỏng các biện pháp chính áp dụng trong năm trước. Chỉ trong trường hợp giá nguyên liệu thô trên thế giới giảm mạnh, thì lạm phát có thể giảm nhiều hơn vào cuối năm, giúp kìm đà tăng giá của cả năm”, Báo cáo nói rõ thêm.
Đặt kịch bản thứ hai với giả định Chính phủ không đủ quyết liệt trong việc chống lạm phát và bình ổn vĩ mô, nhóm nghiên cứu cho rằng mức lạm phát có thể cao hơn, khoảng trên 18%, nhưng đồng thời việc nới lỏng cũng giúp tăng trưởng cao hơn một chút, khoảng hơn 6,5%.
So với các năm trước, hiệu ứng tăng trưởng không còn đáng kể vì sự bất ổn trong năm 2011 đã trực tiếp tác động đến chất lượng tăng trưởng, Báo cáo nhìn nhận và lưu ý thêm: “mức lạm phát cao như trong kịch bản này hàm chứa những rủi ro vĩ mô to lớn, và khả năng lạm phát vượt ra khỏi khả năng kiểm soát là cao”.
Rủi ro ngắn hạn: Lạm phát
Các nghiên cứu tại báo cáo cũng khẳng định, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những rủi ro cả ở ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. “Xét trong ngắn hạn, vấn đề lớn của năm 2011 vẫn là lạm phát và bất ổn vĩ mô”.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, các giải pháp chống lạm phát thông qua chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất dường như còn thụ động, chỉ được áp dụng khi vấn đề lạm phát đã xảy ra rồi, khiến hiệp lực không cao.
Trong khi đó, “ký ức” về lạm phát trong dân đã tồn tại lâu dài, khiến cho lạm phát thấp dễ bị đẩy lên cao, nhưng lạm phát cao thì “cân bằng bền”, gây khó khăn cho các giải pháp kiểm soát lạm phát và đòi hỏi phải duy trì các chính sách lâu dài, người điều hành đủ kiên nhẫn.
Báo cáo cũng lưu ý rằng, mức chuyển tỷ giá vào lạm phát là đáng kể trong ngắn hạn với việc phá giá dẫn đến giá cả tăng lên; thâm hụt ngân sách cộng dồn không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát mà chủ yếu do cách thức tài trợ thâm hụt; tăng lãi suất và tăng cung tiền có thể triệt tiêu nhau; cung tiền và lãi suất có tác động đến lạm phát nhưng với độ trễ khiến việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn...
Cũng chia sẻ quan điểm tại báo cáo này, TS. Võ Trí Thành lưu ý thêm, lạm phát tại Việt Nam chịu tác động cả từ phía cung và phía cầu. Tuy nhiên, để hạn chế tác động đến lạm phát từ chi phí đẩy, hiện Việt Nam không có công cụ nào để kiểm soát tốt: không có kho chiến lược để dự trữ nguyên, nhiên liệu quan trọng cho đầu vào sản xuất, không có khả năng trợ giá, như trường hợp với than, điện, xăng dầu mà thậm chí còn phải cho tăng giá... Cho nên chủ yếu giảm lạm phát ở bên cầu, giảm đầu tư, chi tiêu…
Nhưng ông Thành cũng đặt hàng loạt câu hỏi cho vấn đề này, liệu Việt Nam sẽ chấp nhận đánh đổi tăng trưởng đến mức nào? Nếu đánh đổi thì vấn đề lao động như thế nào trong năm nay và giai đoạn tới?...
Rủi ro trung hạn: Cẩn trọng hệ thống ngân hàng
Với rủi ro trung hạn, báo cáo nhấn mạnh nguy cơ nằm trong khu vực ngân hàng thương mại. Theo nhóm nghiên cứu, khu vực này chịu áp lực rủi ro từ hai nhân tố lớn là doanh nghiệp, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước với những tiềm ẩn rủi ro tài chính đóng vai trò chủ chốt; và khu vực thị trường tài sản, trong đó thị trường bất động sản với giá cả bị kìm giữ ở mức cao (bong bóng) trong một thời gian dài tích tụ những nguy cơ tiềm tàng.
Đồng tình với quan điểm này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất càng cao thì vốn càng chảy vào khu vực công nhiều hơn vì khu vực công sử dụng vốn “bất chấp” lãi suất. Và chi phí vốn càng cao thì đương nhiên chảy vào phí sản xuất.
Đánh giá một cách hệ thống, TS. Võ Trí Thành cho rằng, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đang đối mặt 4 vấn đề: rủi ro thiếu thanh khoản; rủi ro sai lệch cơ cấu đồng tiền; rủi ro nợ xấu; rủi ro tổng dư nợ với thị trường bất động sản.
“Kết quả là, Việt Nam đang dần có nhiều dấu hiệu đi vào quỹ đạo điển hình của một nền kinh tế hàm chứa rủi ro khủng hoảng ngân hàng đi liền với rủi ro khủng hoảng tiền tệ (khủng hoảng đôi)”, báo cáo đưa ra bình luận.
Kết luận thêm một rủi ro dài hạn từ các vấn đề nêu trên, nhóm nghiên cứu chỉ rõ nguyên nhân từ mô hình tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư, khiến khoảng cách tiết kiệm - đầu tư của nền kinh tế ngày càng mở rộng, đi liền với thâm hụt cán cân vãng lai. Những mất cân đối đó khiến nền kinh tế trở nên dễ tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, mà nguy cơ trực tiếp là các cuộc khủng hoảng tiền tệ.
Báo cáo kinh tế năm 2011 có tiêu đề “Nền kinh tế trước ngã ba đường” cũng cho thấy phần nào những khó khăn nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt.
Thế bất lợi
Theo nhóm tác giả báo cáo, nếu xét về không gian cho các chính sách vĩ mô, hiện nay Việt Nam ở vào thế bất lợi hơn so với năm 2008, cho dù đó là năm chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Cách đây khoảng 3 năm, ngân sách chưa bị thâm hụt quá sâu nên chính sách tài khóa còn có thể khá linh hoạt; lạm phát bắt đầu bùng lên cao nhưng lãi suất lúc đó chưa cao, và khả năng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát là chấp nhận đuợc.
Thêm vào đó, dự trữ ngoại hối năm 2008 đang ở đỉnh điểm, có thể can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối. Tâm lý của người dân và doanh nghiệp khi đó cũng vẫn còn khá lạc quan vì cuộc khủng hoảng mới chỉ bắt đầu.
Sau hai năm chống đỡ những khó khăn về kinh tế, sử dụng công cụ tài khóa một cách mạnh mẽ khiến nợ công đã tăng rất mạnh và thâm hụt ngân sách duy trì ở mức cao, không gian chính sách về khía cạnh tài khóa không còn nhiều, Báo cáo lưu ý.
Trong khi đó, cũng năm 2010, Việt Nam cũng sử dụng nhiều can thiệp về tiền tệ như nâng lãi suất, thắt chặt hơn cung tiền và tín dụng, giảm mạnh dự trữ ngoại hối để bình ổn tỷ giá khiến không gian chính sách về khía cạnh tiền tệ bị thu hẹp.
Báo cáo kết luận: “Trong năm 2011, các công cụ chính sách không còn nhiều cơ hội vận dụng với quy mô lớn được nữa. Điều này đã thể hiện rõ trong những tháng đầu năm, khi chúng ta phải sử dụng nhiều công cụ hành chính quyết liệt trong việc can thiệp vào các thị trường”.
Hai kịch bản tăng trưởng
Phân tích các nguồn lực hạn chế hơn trong năm nay, báo cáo đưa ra hai kịch bản cho nền kinh tế.
Ở kịch bản thứ nhất, với chính sách tiền tệ được thắt chặt một cách “kiên nhẫn” (kéo dài đến hết năm) đi liền với cắt giảm chi đầu tư công “ nghiêm khắc” như tinh thần của Nghị quyết 11, nhóm nghiên cứu cho rằng lạm phát năm nay vẫn có thể cao tới 15,5%, trong khi tăng trưởng chỉ đạt khoảng 6,2%, thấp hơn so với năm 2010 và chỉ tiêu của năm nay.
“Việc lạm phát hay mức giá chung năm nay tăng cao bắt nguồn từ sự điều chỉnh lớn trong giá các mặt hàng thiết yếu và nguyên liệu đầu vào, cũng như đà tăng giá sau khi nới lỏng các biện pháp chính áp dụng trong năm trước. Chỉ trong trường hợp giá nguyên liệu thô trên thế giới giảm mạnh, thì lạm phát có thể giảm nhiều hơn vào cuối năm, giúp kìm đà tăng giá của cả năm”, Báo cáo nói rõ thêm.
Đặt kịch bản thứ hai với giả định Chính phủ không đủ quyết liệt trong việc chống lạm phát và bình ổn vĩ mô, nhóm nghiên cứu cho rằng mức lạm phát có thể cao hơn, khoảng trên 18%, nhưng đồng thời việc nới lỏng cũng giúp tăng trưởng cao hơn một chút, khoảng hơn 6,5%.
So với các năm trước, hiệu ứng tăng trưởng không còn đáng kể vì sự bất ổn trong năm 2011 đã trực tiếp tác động đến chất lượng tăng trưởng, Báo cáo nhìn nhận và lưu ý thêm: “mức lạm phát cao như trong kịch bản này hàm chứa những rủi ro vĩ mô to lớn, và khả năng lạm phát vượt ra khỏi khả năng kiểm soát là cao”.
Rủi ro ngắn hạn: Lạm phát
Các nghiên cứu tại báo cáo cũng khẳng định, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những rủi ro cả ở ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. “Xét trong ngắn hạn, vấn đề lớn của năm 2011 vẫn là lạm phát và bất ổn vĩ mô”.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, các giải pháp chống lạm phát thông qua chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất dường như còn thụ động, chỉ được áp dụng khi vấn đề lạm phát đã xảy ra rồi, khiến hiệp lực không cao.
Trong khi đó, “ký ức” về lạm phát trong dân đã tồn tại lâu dài, khiến cho lạm phát thấp dễ bị đẩy lên cao, nhưng lạm phát cao thì “cân bằng bền”, gây khó khăn cho các giải pháp kiểm soát lạm phát và đòi hỏi phải duy trì các chính sách lâu dài, người điều hành đủ kiên nhẫn.
Báo cáo cũng lưu ý rằng, mức chuyển tỷ giá vào lạm phát là đáng kể trong ngắn hạn với việc phá giá dẫn đến giá cả tăng lên; thâm hụt ngân sách cộng dồn không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát mà chủ yếu do cách thức tài trợ thâm hụt; tăng lãi suất và tăng cung tiền có thể triệt tiêu nhau; cung tiền và lãi suất có tác động đến lạm phát nhưng với độ trễ khiến việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn...
Cũng chia sẻ quan điểm tại báo cáo này, TS. Võ Trí Thành lưu ý thêm, lạm phát tại Việt Nam chịu tác động cả từ phía cung và phía cầu. Tuy nhiên, để hạn chế tác động đến lạm phát từ chi phí đẩy, hiện Việt Nam không có công cụ nào để kiểm soát tốt: không có kho chiến lược để dự trữ nguyên, nhiên liệu quan trọng cho đầu vào sản xuất, không có khả năng trợ giá, như trường hợp với than, điện, xăng dầu mà thậm chí còn phải cho tăng giá... Cho nên chủ yếu giảm lạm phát ở bên cầu, giảm đầu tư, chi tiêu…
Nhưng ông Thành cũng đặt hàng loạt câu hỏi cho vấn đề này, liệu Việt Nam sẽ chấp nhận đánh đổi tăng trưởng đến mức nào? Nếu đánh đổi thì vấn đề lao động như thế nào trong năm nay và giai đoạn tới?...
Rủi ro trung hạn: Cẩn trọng hệ thống ngân hàng
Với rủi ro trung hạn, báo cáo nhấn mạnh nguy cơ nằm trong khu vực ngân hàng thương mại. Theo nhóm nghiên cứu, khu vực này chịu áp lực rủi ro từ hai nhân tố lớn là doanh nghiệp, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước với những tiềm ẩn rủi ro tài chính đóng vai trò chủ chốt; và khu vực thị trường tài sản, trong đó thị trường bất động sản với giá cả bị kìm giữ ở mức cao (bong bóng) trong một thời gian dài tích tụ những nguy cơ tiềm tàng.
Đồng tình với quan điểm này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất càng cao thì vốn càng chảy vào khu vực công nhiều hơn vì khu vực công sử dụng vốn “bất chấp” lãi suất. Và chi phí vốn càng cao thì đương nhiên chảy vào phí sản xuất.
Đánh giá một cách hệ thống, TS. Võ Trí Thành cho rằng, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đang đối mặt 4 vấn đề: rủi ro thiếu thanh khoản; rủi ro sai lệch cơ cấu đồng tiền; rủi ro nợ xấu; rủi ro tổng dư nợ với thị trường bất động sản.
“Kết quả là, Việt Nam đang dần có nhiều dấu hiệu đi vào quỹ đạo điển hình của một nền kinh tế hàm chứa rủi ro khủng hoảng ngân hàng đi liền với rủi ro khủng hoảng tiền tệ (khủng hoảng đôi)”, báo cáo đưa ra bình luận.
Kết luận thêm một rủi ro dài hạn từ các vấn đề nêu trên, nhóm nghiên cứu chỉ rõ nguyên nhân từ mô hình tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư, khiến khoảng cách tiết kiệm - đầu tư của nền kinh tế ngày càng mở rộng, đi liền với thâm hụt cán cân vãng lai. Những mất cân đối đó khiến nền kinh tế trở nên dễ tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, mà nguy cơ trực tiếp là các cuộc khủng hoảng tiền tệ.