Nợ thuế quá hạn tăng vọt
Những tháng đầu năm 2012, số nợ thuế quá hạn do ngành hải quan quản lý đã tăng vọt so với thời điểm cuối năm 2011
Kinh tế khó khăn, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng, không ít doanh nghiệp đã phải thu hẹp hoặc ngừng sản xuất, phá sản... tiếp tục là nguyên nhân dẫn tới tình trạng chây ỳ nợ thuế.
Theo đánh giá từ Tổng cục Hải quan, những tháng đầu năm 2012, số nợ thuế quá hạn do ngành hải quan quản lý đã tăng vọt so với thời điểm cuối năm 2011.
Số liệu từ Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho thấy, số nợ thuế chuyên thu quá hạn toàn ngành hải quan đang quản lý ước khoảng 5.823 tỷ đồng. Điều đáng chú ý, trong số gần sáu nghìn tỷ nợ thuế này thì có tới gần nửa là nợ khó đòi, với 2.534,2 tỷ đồng. Số nợ thuế tạm thu (của nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, tạm nhập tái xuất) quá hạn đến hết tháng 5 là khoảng 1.635 tỷ đồng. Trong đó, riêng nợ loại hình tạm nhập tái xuất là 449,3 tỷ đồng.
Phân tích về nguyên nhân của tình trạng gia tăng nợ thuế khó đòi, nợ quá hạn, Cục Thuế xuất nhập khẩu cho biết, suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, không thể tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng, đa phần phải thu hẹp sản xuất hoặc ngưng hoạt động nên không có khả năng nộp thuế. Ngoài ra, do ý thức chấp hành pháp luật về thuế của doanh nghiệp còn thấp nên dẫn tới tình trạng bất hợp tác với hải quan.
Ông Nguyễn Hoàng Tuấn, Cục phó Cục Thuế xuất nhập khẩu cho rằng, ngoài những nguyên nhân trên, thì nguyên nhân quan trọng của tình trạng gia tăng nợ thuế quá hạn là bởi những bất cập trong những quy định hiện hành.
Cụ thể, việc thực hiện nộp thuế theo thời hạn nộp thuế quy định tại Điều 42 Luật Quản lý thuế đã giúp doanh nghiệp có thời gian thu xếp nguồn tiền để nộp thuế nhưng quy định này cũng đã bộc lộ những hạn chế như: việc duy trì thời hạn nộp thuế cho một số loại hình nhập khẩu không phải nộp thuế ngay, không có bảo lãnh gây khó khăn trong công tác quản lý vì sau khi đã giải phóng hàng một số doanh nghiệp chây ỳ; không nộp thuế đúng hạn hoặc doanh nghiệp dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn; không nộp thuế đúng hạn, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế luôn phát sinh, nợ kéo dài gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Quá trình thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế đã có tác động tích cực trong thu hồi nợ thuế, nhưng cũng bộc lộ những mặt hạn chế vì trong thực tế, việc cưỡng chế nợ thuế đạt hiệu quả không cao, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế chưa đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Việc thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế sẽ không thật sự hiệu quả do không được áp dụng những biện pháp cần áp dụng ngay một cách phù hợp nhất với tình thế. Bởi, khi phải thực hiện theo thứ tự các biện pháp, cơ quan hải quan phải thực hiện nhiều thủ tục nên mất nhiều thời gian. Một doanh nghiệp có thể mở tài khoản tại nhiều nơi nhiều ngân hàng không cung cấp thông tin hoặc cung cấp không kịp thời, do đó việc thực thi biện pháp trích tiền từ tài khoản ngân hàng gắp rất nhiều khó khăn.
Từ nay tới cuối năm 2012, Tổng cục Hải quan cho biết, toàn ngành đang tập trung mọi nguồn lực, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách được giao là 223.900 tỷ đồng. Chỉ tiêu phấn đấu đưa ra là từ nay tới cuối năm, ngành hải quan sẽ đạt chỉ tiêu thu hồi nợ đọng gấp 2 lần năm 2011.
Theo đó, một trong những giải pháp được hải quan đẩy mạnh thực hiện là phối hợp với các cơ quan liên quan như thuế, công an, tòa án, viện kiểm sát, ngân hàng và các tổ chức tín dụng để truy tìm chủ nợ, thu hồi các khoản nợ đọng có khả năng thu hồi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các án liên quan đến lĩnh vực thuế.
Tại nhiều cục hải quan, ngoài việc rà soát, phân loại nợ thì riêng với các doanh nghiệp nợ thuế quá hạn 90 ngày, cơ quan hải quan thường phải sử dụng các biện pháp cứng rắn như mời doanh nghiệp tới trụ sở hải quan và yêu cầu doanh nghiệp phải có giải pháp, cam kết thời hạn trả nợ.
Tuy nhiên, biện pháp quan trọng, theo Cục Thuế xuất nhập khẩu là cần sớm sửa đổi những quy định pháp luật liên quan. Đại diện Cục cho biết, tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế đã kiến nghị sửa đổi bổ sung 1 số điều trong đó: Điều 42 quy định về thời hạn nộp thuế nhằm hạn chế phát sinh nợ thuế theo hướng người nộp thuế phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hoặc phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
Đồng thời, quy định chế độ trách nhiệm đối với tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh có nghĩa vụ nộp thuế thay khi doanh nghiệp không nộp đủ thuế.
Cơ quan hải quan cũng đã kiến nghị đưa biện áp dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu lên biện pháp thứ 3 và đồng thời đang kiến nghị cho phép được áp dụng linh hoạt các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đạt hiệu quả, được áp dụng ngay biện pháp phù hợp nhất với tình hình thực tế, đảm bảo khả năng thu hồi nợ.
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)
Theo đánh giá từ Tổng cục Hải quan, những tháng đầu năm 2012, số nợ thuế quá hạn do ngành hải quan quản lý đã tăng vọt so với thời điểm cuối năm 2011.
Số liệu từ Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho thấy, số nợ thuế chuyên thu quá hạn toàn ngành hải quan đang quản lý ước khoảng 5.823 tỷ đồng. Điều đáng chú ý, trong số gần sáu nghìn tỷ nợ thuế này thì có tới gần nửa là nợ khó đòi, với 2.534,2 tỷ đồng. Số nợ thuế tạm thu (của nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, tạm nhập tái xuất) quá hạn đến hết tháng 5 là khoảng 1.635 tỷ đồng. Trong đó, riêng nợ loại hình tạm nhập tái xuất là 449,3 tỷ đồng.
Phân tích về nguyên nhân của tình trạng gia tăng nợ thuế khó đòi, nợ quá hạn, Cục Thuế xuất nhập khẩu cho biết, suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, không thể tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng, đa phần phải thu hẹp sản xuất hoặc ngưng hoạt động nên không có khả năng nộp thuế. Ngoài ra, do ý thức chấp hành pháp luật về thuế của doanh nghiệp còn thấp nên dẫn tới tình trạng bất hợp tác với hải quan.
Ông Nguyễn Hoàng Tuấn, Cục phó Cục Thuế xuất nhập khẩu cho rằng, ngoài những nguyên nhân trên, thì nguyên nhân quan trọng của tình trạng gia tăng nợ thuế quá hạn là bởi những bất cập trong những quy định hiện hành.
Cụ thể, việc thực hiện nộp thuế theo thời hạn nộp thuế quy định tại Điều 42 Luật Quản lý thuế đã giúp doanh nghiệp có thời gian thu xếp nguồn tiền để nộp thuế nhưng quy định này cũng đã bộc lộ những hạn chế như: việc duy trì thời hạn nộp thuế cho một số loại hình nhập khẩu không phải nộp thuế ngay, không có bảo lãnh gây khó khăn trong công tác quản lý vì sau khi đã giải phóng hàng một số doanh nghiệp chây ỳ; không nộp thuế đúng hạn hoặc doanh nghiệp dù có khả năng thanh toán vẫn dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn; không nộp thuế đúng hạn, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế luôn phát sinh, nợ kéo dài gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Quá trình thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 93 Luật Quản lý thuế đã có tác động tích cực trong thu hồi nợ thuế, nhưng cũng bộc lộ những mặt hạn chế vì trong thực tế, việc cưỡng chế nợ thuế đạt hiệu quả không cao, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế chưa đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Việc thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế sẽ không thật sự hiệu quả do không được áp dụng những biện pháp cần áp dụng ngay một cách phù hợp nhất với tình thế. Bởi, khi phải thực hiện theo thứ tự các biện pháp, cơ quan hải quan phải thực hiện nhiều thủ tục nên mất nhiều thời gian. Một doanh nghiệp có thể mở tài khoản tại nhiều nơi nhiều ngân hàng không cung cấp thông tin hoặc cung cấp không kịp thời, do đó việc thực thi biện pháp trích tiền từ tài khoản ngân hàng gắp rất nhiều khó khăn.
Từ nay tới cuối năm 2012, Tổng cục Hải quan cho biết, toàn ngành đang tập trung mọi nguồn lực, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách được giao là 223.900 tỷ đồng. Chỉ tiêu phấn đấu đưa ra là từ nay tới cuối năm, ngành hải quan sẽ đạt chỉ tiêu thu hồi nợ đọng gấp 2 lần năm 2011.
Theo đó, một trong những giải pháp được hải quan đẩy mạnh thực hiện là phối hợp với các cơ quan liên quan như thuế, công an, tòa án, viện kiểm sát, ngân hàng và các tổ chức tín dụng để truy tìm chủ nợ, thu hồi các khoản nợ đọng có khả năng thu hồi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các án liên quan đến lĩnh vực thuế.
Tại nhiều cục hải quan, ngoài việc rà soát, phân loại nợ thì riêng với các doanh nghiệp nợ thuế quá hạn 90 ngày, cơ quan hải quan thường phải sử dụng các biện pháp cứng rắn như mời doanh nghiệp tới trụ sở hải quan và yêu cầu doanh nghiệp phải có giải pháp, cam kết thời hạn trả nợ.
Tuy nhiên, biện pháp quan trọng, theo Cục Thuế xuất nhập khẩu là cần sớm sửa đổi những quy định pháp luật liên quan. Đại diện Cục cho biết, tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế đã kiến nghị sửa đổi bổ sung 1 số điều trong đó: Điều 42 quy định về thời hạn nộp thuế nhằm hạn chế phát sinh nợ thuế theo hướng người nộp thuế phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hoặc phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
Đồng thời, quy định chế độ trách nhiệm đối với tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh có nghĩa vụ nộp thuế thay khi doanh nghiệp không nộp đủ thuế.
Cơ quan hải quan cũng đã kiến nghị đưa biện áp dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu lên biện pháp thứ 3 và đồng thời đang kiến nghị cho phép được áp dụng linh hoạt các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đạt hiệu quả, được áp dụng ngay biện pháp phù hợp nhất với tình hình thực tế, đảm bảo khả năng thu hồi nợ.
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)